Tháng Ba chôn súng

 

Mũ Xanh Lê Khắc Phước

ĐĐ2/TĐ7/LĐ147/TQLC

 



Cứ mỗi tháng Ba về, ḷng tôi lại chùng xuống, phải nói là buồn đau, cay đắng, ngậm ngùi đến tận cùng tim gan mỗi khi nh́n thấy những h́nh ảnh đau thương đập vào mắt tại băi biển Thuận An vào những ngày 25, 26, 27 hay tại bờ biển Đà Nẵng ngày 28, 29 tháng 3/1975.


Đă 39 năm trôi qua, đă có quá nhiều bài viết về những ngày cuối tháng 3/1975 tại băi biển Thuận An. Tôi không muốn lập lại nhưng với cương vị là Trung Úy, ĐĐP/ĐĐ2, TĐ7, LĐ147/TQLC, là lữ đoàn bị kẹt lại trên băi biển Thuận An, tôi xin ghi lại những ǵ mắt thấy, tai nghe cùng suy nghĩ của ḿnh về những ngày chiến đấu tới tận cùng sức sống của TĐ7/TQLC mà Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Phạm Cang, Tiểu Đoàn Phó là Thiếu Tá Lê Quang Liễn, cả 2 vị đều xuất thân từ Khóa 20 Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam.


Viết để thấy rơ hơn là trong trận đánh cuối cùng đó của TĐ7/TQLC, chúng tôi đă chiến đấu với ai, với 1 đại đội du kích Việt Cộng hay là chiến đấu với cấp tiểu đoàn, trung đoàn chính quy Bắc Việt với hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 cùng với chiến xa T54 yểm trợ…

 

Phu Hieu Su Doan Thuy Quan Luc Chien Viet Nam Cong Hoa

 

Khoảng 5 giờ chiều ngày 19/3/1975, trời nhá nhem tối, tôi là đại đội phó ĐĐ2/TĐ7 TQLC, bàn giao vị trí pḥng thủ cho 1 trung úy đại đội trưởng đại đội Biệt Động Quân. Đi theo tuyến pḥng thủ dưới cơn mưa phùn gió bấc của tháng 2 âm lịch tại miền núi rừng miền Trung, lạnh cắt da, miệng đánh ḅ cạp. Tôi hỏi ông về khả năng tham chiến th́ được biết quân số của đại đội ông là khoảng 80, mới đụng nặng trở về nên quân số chưa bổ sung kịp. Như vậy là gay cấn rồi đây, quân số của ông vừa đủ trám tuyến cho 2 trung đội TQLC chúng tôi.



Tieu Doan 7 Hum Xam TQLC


Tôi hướng dẫn cho ông hệ thống pḥng thủ, giao thông hào h́nh chữ Z, hầm hố cá nhân, những vị trí đặt súng nặng đại liên M60, những hầm hàm ếch dưới giao thông hào sâu gần 2 mét để tránh pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 ly. Tuyến pḥng thủ là một đồi đá nhiều hơn đất, muốn lấy nước là phải theo những con đường đặc biệt từ trên đồi xuống thông thủy. Bàn giao cả những vị trí gài bẫy, gài ḿn claymore, lựu đạn và có cả những vọng gác giả, lính giả để nghi binh… Ban ngày thấy vậy nhưng không phải vậy, ban đêm mà ṃ vào là biết thế nào là TQLC pḥng thủ, biết thế nào là Sinh Bắc Tử Nam ngay… Bàn giao cho ông những hỏa tập tiên liệu trên bản đồ. Coi chừng bị bắn sẻ. Riêng 2 cái máy sensor để ḍ tiếng động th́ chúng tôi phải đem theo. Khoảng 8 giờ tối th́ chúng tôi mới bàn giao xong. Tôi chúc ông may mắn ở lại, c̣n chúng tôi từ giă Quảng Trị Anh Hùng…


TĐ7/TQLC được lệnh rút về lập Tuyến Đỏ tại đèo Hải Vân. Mỗi sĩ quan nhận 10 tấm bản đồ trải dài từ Quảng Trị đến Đà Nẵng. Từ khi t́nh nguyện về TQLC, đây là lần đầu tiên tôi nhận một số bản đồ nhiều kỷ lục cho một cuộc hành quân. Chúng tôi thống nhất đánh số xấp bản đồ từ 1 đến 10 và mỗi bản đồ đều có những soát điểm, di chuyển đến đâu là phải báo cáo cho BCH/TĐ biết để kịp thời yểm trợ. Kèm theo đó c̣n có những hỏa tập tiên liệu… tất cả đều được mă hóa, VC có bắt được tần số của chúng tôi th́ cũng mù v́ chỉ có sĩ quan mới có tập giải mă này. Nói đến đây không thể không nhắc đến Thiếu Tá Lê Quang Liễn, TĐP/TĐ7, ông là người soạn ra tập mă hóa này, tất cả đều bằng số, và các sĩ quan cũng như hiệu thính viên đều phải cố gắng nhớ càng nhiều càng tốt…

 

Cầu An Lỗ trước 1975


Ngày 20/3/1975, đơn vị tôi rút về đóng quân tại cây số 17, nhiệm vụ là bảo vệ cầu An Lỗ để bảo đảm an ninh lộ tŕnh cho Lữ Đoàn 369 của Tr/Tá Nguyễn Xuân Phúc đi chuyển qua rồi mới tới TĐ7 sẽ rút sau cùng theo chiến thuật cuốn chiếu. Tôi c̣n nhớ rơ là sáng hôm đó tôi đă đứng nghiêm chào khi Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, TĐT/TĐ9 đi ngang qua cầu. Ngồi trên xe ông chào lại và mỉm cười. Ông và tôi quá quen thuộc v́ trước đó không lâu ông là TĐP/TĐ7 và tôi là ĐĐP/ĐĐ2/TĐ7, cùng chung cánh B do ông chỉ huy.


Ngày 21/3/1975, thật là bất ngờ khi được Thiếu Tá Phạm Cang cho tôi 6 giờ phép về thăm gia đ́nh. Bất ngờ là v́ suốt hơn 2 năm hành quân ở Quảng Trị, qua 2 đời TĐT, Th/Tá Nguyễn Kim K16 VB rồi Th/Tá Phạm Cang K20 VB, qua 2 cái Tết, tôi chưa bao giờ được cấp 1 giờ phép, mặc dù gia đ́nh tôi ở Huế, chỉ cách nơi tôi hành quân khoảng 50 cây số…

 


Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 TQLC @ tqlcvn.org

 

Cầm tờ giấy phép trong tay, tôi đu theo chiếc GMC tiếp tế trên đường trở về hậu trạm ở Mang Cá và về đến nhà khoảng 11 giờ sáng. Đến 12 giờ trưa th́ ba tôi đi làm về, tôi cùng gia đ́nh ăn một bữa cơm sau hơn 2 năm xa cách từ ngày ra trường (15/12/1972). Ba tôi làm việc tại Viện Đại Học Huế, ông cho tôi biết là tất cả nhân viên đă sẵn sàng di tản vào Đà Nẳng khi có lệnh. Khoảng 1 giờ trưa, từ giă gia đ́nh, tôi đi xe Honda qua Bưu Điện Huế để gọi điện thoại về cho “em gái hậu phương” ở Sài G̣n. Tôi chỉ cho biết là tôi sẽ đi thăm chú K. (chú K. là chú của tôi đang dạy học tại Đà Nẵng). Nói chuyện được 5 phút, phải ngưng, nhường cho người khác v́ người chờ để gọi quá đông. Có một ông nhận là kư giả hỏi tôi là có gởi hay nhắn ǵ về Sai G̣n không, ngày mai ông sẽ về SG. Tôi cám ơn ổng v́ chẳng có ǵ để gởi.


Lại leo lên xe Honda ra bến xe để trở lại nơi hành quân. Hơn 2 năm trời được 6 giờ phép vể thăm cha mẹ ngay trong vùng hành quân! Những ai không ở trong hoàn cảnh lính chiến trên địa đầu giới tuyến th́ tưởng đó là chuyện đùa, chính tôi cũng tưởng đùa, nhưng mà là thật. Không phải cấp chỉ huy làm khó thuộc cấp, chúng tôi, từ trên xuống dưới đều thế cả, v́ nhiệm vụ mà phải hy sinh, v́ tụi VC xâm lăng muốn “làm khó, làm khổ” đồng bào.


Ba giờ chiều, ra đến vị trí đóng quân, th́ một ngạc nhiên khác lại đến với tôi, đó là đơn vị của tôi đă không c̣n ở chỗ cũ như hồi sáng nữa mà đă hành quân trở ra lại Quảng Trị rồi!.


Ngày 22/3/1975, một ngày khá yên tĩnh, khoảng 8 giờ sáng, toán tiền đồn báo về là từ hướng Quảng Trị có một số quân và dân đang di chuyển về tuyến chúng tôi. Tôi được lệnh là chận tất cả lại. Hỏi chuyện một Trung Úy Địa Phương Quân th́ được biết là quân chính quy Bắc Việt rất đông cùng với nhiều chiến xa đă chiếm Quảng Trị, nơi mà mấy ngày trước, TQLC vừa bàn giao tuyến lại cho BĐQ và ĐPQ.


Đến chiều th́ địch xuất hiện, ngang nhiên như chỗ không người, họ đâu có ngờ là TQLC vẫn c̣n đây, và được chúng tôi tiếp đón rất nồng hậu bằng hỏa lực cơ hữu cùng với 1 M41 tăng phái. Địch rút.


Ngày 23/03/1975, một ngày khá căng thẳng, 2 bên gờm nhau, địch biết ta, ta biết địch nhưng 2 bên đều án binh bất động. Hai bên đều đánh hơi được là thế nào cũng sẽ có 1 cuộc thư hùng xa xảy ra nhưng chưa biết sẽ xảy ra khi nào thôi. Gọi pháo binh không được, không biết tại sao. Từ khi tôi làm ĐĐP, luôn luôn có 1 Thiếu Úy “đề lô” thuộc pháo binh cơ hữu của TQLC đi với tôi nhưng mấy ngày gần đây không c̣n thấy nữa. Đă 3 tháng nay, sĩ quan “đề lô” của pháo binh TQLC đi với tôi là Thiếu Úy Lê Hạ Huyền. Tôi nhớ rơ họ tên v́ ông T/U Huyền là bà con với tôi, tôi gọi ông bằng chú măc dù tuổi ông nhỏ hơn tôi.


Ngày 24/03/1975, tôi nằm trên tuyến với 3 Trung Đội 1, 2 và 3. Cả 3 trung đội dàn hàng ngang nằm trên những đụn cát, chỉ có những bụi dương liễu cao khoảng nửa mét, không có chỗ ngụy trang. Xin nói thêm là trong giai đoạn lính tổng trừ bị TQLC “được” làm lính địa phương, đối phó với giặc có chiến xa th́ quân số của một đại đội TQLC trung b́nh là 160, bao gồm một tiểu đội chống chiến xa (TĐCCX). Mỗi quân nhân trong TĐCCX ngoài 1 cấp số đạn M16 c̣n mang 3 khẩu M72. Tức là mỗi đại đội TQLC có hơn 30 khẩu M72, một loại vũ khí diệt tank hữu hiệu vào thời điểm đó.


Hôm ấy khoảng 10 giờ sáng mà trời vẫn c̣n sương mù dày đặc, tầm nh́n rất giới hạn, toán tiền đồn báo là có tiếng của chiến xa (CX) nhưng chưa xác định được loại nào v́ chưa thấy rơ. Mặt trời từ từ xuyên thủng màn sương mù dày đặc và chúng tôi đă thấy chiến xa địch xuất hiện, 1 rồi 2, rồi 3, rồi 4, rồi 5 chiếc T54 với bộ binh tùng thiết, dàn hàng ngang tiến thẳng về hướng pḥng thủ của đại đội tôi. Tôi gọi máy báo cho ĐĐT là Đại Úy Ngô Kim Anh biết t́nh h́nh và xin pháo binh yểm trợ. Tôi gọi pháo binh, cho tọa độ. Tràng đầu tiên hơi xa, tôi điều chỉnh gần lại 50, vẫn c̣n xa, gần lại 50 nữa th́ đạn đă nổ chụp ngay trên đội h́nh của địch. Địch bắt đầu dừng lại, lúng túng rồi hoảng hốt, địch chưa thấy ta. Yếu tố bí mật và bất ngờ đang nằm phía ta. Lệnh đại đội cho tôi chơi ống thổi lửa (M72) nhưng chưa cần thiết, một khi phóng M72 ra là phải chắc ăn, “cua phải bị nướng”, phải chờ chúng tới thật gần, nhất 9 nh́ bù, CX c̣n ở xa, không trúng mục tiêu mà vị trí của ḿnh bị lộ th́… với hỏa lực của T54, một khẩu đại bác 100 ly cộng với đại liên nó mà quạt lại th́ tiêu, TQLC sống hùng, sống mạnh nhưng chắc là không sống lâu.


Cái hấp dẫn, hồi hộp, căng thẳng, b́nh tĩnh, sống chết trong đường tơ, mạng của hằng trăm lính trên tuyến đối diện với CX địch chính là tùy thuộc vào cấp chỉ huy lúc này đây. Lúc này đây, tôi không nghĩ ǵ đến cha mẹ tôi ở Huế, ngừơi yêu ở Saig̣n, em hậu phương ở Đà Lạt, những nụ cừoi duyên BTX sáng Chúa Nhật trên khu phố Ḥa B́nh, nhà Thủy Tạ v.v… mà là mạng sống của anh em tôi, của tôi trứơc họng súng 100 ly của T54.


Tôi c̣n nhớ thời gian TĐ7 về “hấp” ở TTHL Đống Đa tại Phú Bài, trong 1 buổi huấn luyện và thực tập bắn M72, tôi được chỉ định bắn M72 cho quân nhân trong ĐĐ xem. Với cự ly 150 mét, trời nắng, gió nhẹ, tầm quan sát rơ, tôi đă bắn bay mục tiêu là 3 cái thùng phuy tượng trưng cho T54. Đó là kết quả của những ngày thao trường đổ mồ hôi, công sức huấn luyện của các Đ/Úy Tôn, Đ/U Nhồng, Đ/U Thái, Đ/U Dục … Xin thành thật cám ơn quư vị, nhờ các vị huấn luyện đă tạo cho tôi niềm tự tin trứơc họng súng CX T54, tôi sẽ chờ chúng tới thật gần, vào tầm hủy diệt 99% của súng chống CX M72.

 


Chiến xa T54 của CSBV bị bắn cháy

 

Chúng tôi quyết ém quân chờ chiến xa địch, lọt ăn, không lọt đền, phải tương đối chắc ăn mới khai hỏa. 200 mét, rồi 180 mét, rồi 150 mét, tôi ra hiệu cho TĐCCX chuẩn bị, sẵn sàng rút chốt an toàn của M72. T54 cùng bộ binh tùng thiết rơ dần dần, mặc quần áo kaki Nam Định, đầu đội nón cối, tất cả đều ngụy trang bằng những cành dương. Pháo binh vẫn rót vào vị trí địch, 1 tràng, 2 tràng, 3 tràng… Bùm! Bùm! Bùm! Khói lửa mịt mùng, 1 T54 đă bị trúng đạn pháo binh, 2 chiếc bị trúng M72, bộ binh tùng thiết bắt đầu rụng, địch nao núng rồi chuyển hướng chạy về phía rừng dương ẩn núp. Nhưng khốn khổ cho chúng là nơi đó có Trung Đội 2 pḥng thủ được tăng cường chiến xa M41. Tôi nh́n ra đàng sau th́ thấy đại đội trưởng đang bàn luận với Thiếu Tá Lê Quang Liễn, Tiểu Đoàn Phó, ông là người chỉ huy trực tiếp cánh B. Mỗi lần đụng trận, ông luôn có mặt tại tuyến đầu với tụi tôi. Đó là cách đánh giặc của VB/TQLC.


Ta và địch gần như “sáp lá cà”, không dùng PB được nữa, TQLC và M41 trực diện với T54 và VC tùng thiết! Thiệt hại cả hai bên, chiến trường là thế, địch chết la liệt th́ anh em TQLC chúng tôi cũng thiệt hại không ít. Nhưng biết làm sao hơn, chúng tôi đă tận dụng những ǵ học hỏi được ở quân trường và kinh nghiệm chiến trường, đă tận lực sức người và khả năng chỉ huy để giảm thiểu thiệt hại cho đồng đội và quan trọng hơn, chúng tôi vẫn đứng, thuộc cấp thấy chúng tôi vẫn đứng, đó là điều trường Mẹ không hổ thẹn có những đứa con như thế, như thế.


Đến chiều tối th́ được lệnh rút, mang theo thương binh tử sĩ, bỏ mặc vũ khí chiến lợi phẩm, súng ta c̣n mang không hết th́ mang theo “củi” của địch làm ǵ? Súng không đạn là củi. Mang theo “củi” để kể công để thượng cấp cho ADBT! Địch cũng án binh bất động.

 


Thiếu tá Lê Quang Liễn, TĐP/TĐ 7 TQLC @ 
tqlcvn.org


Đêm 24/3/1975, khoảng 12 giờ khuya, trên đường lui binh, chúng tôi lại bắn cháy 1 chiến xa, không phải T54 mà là M41 của ta. Không phải bắn lầm đơn vị bạn v́ tối trời mà cố t́nh bắn v́ M.41 đă hết xăng, phải dùng M72 để bắn cháy M41 sau khi đă thảy vào pháo tháp 2 trái lựu đạn. Dứt khoát không để lọt vào tay địch.


Khoảng 2 giờ sáng, trên đường rút quân, Thiếu Tá Lê Quang Liễn gặp tôi, ông và tôi im lặng xiết tay nhau như chúc mừng nhau c̣n sống, rồi chụm đầu trên tấm bản đồ dưới ánh đèn pin trong M113 để xác định…, ông dặn tôi nhớ chuyển thương binh nặng ưu tiên đi trước, v́ có tín hiệu báo cho biết địch đang áp sát theo sau.

 

Bản đồ khu vực cửa Thuận An


Ngày 25/3/1975, khoảng 8 giờ sáng TĐ7/TQLC về tới cửa Thuận An, ở đây đă có rất đông dân chúng cùng các đơn vị bạn khác trong t́nh thế vô cùng hỗn độn mà chắc chắn có du kích và đề-lô PB địch trộn vào, sẽ vô cùng nguy hiểm khi có súng nổ hay làm mục tiêu cho pháo địch, v́ thế Th/Tá Phạm Cang cho lệnh tiếp tục di chuyển dọc theo bờ biển xuôi về phía Nam để bắt tay với đơn vị đi trước là TĐ4/TQLC của Th/Tá Đinh Long Thành K19. V́ TĐ7 là tiểu đoàn đoạn chiến, đi sau cùng trong hệ thống chỉ huy của Lữ Đoàn 147/TQLC được lệnh lui về Đà Nẵng theo lộ tŕnh dọc theo bờ biển Thuận An rồi vượt qua cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng, nếu không có tàu HQ vào bốc.


Đến trưa, gặp TĐ4/TQLC, tiểu đoàn cho lệnh dừng quân, lập tuyến pḥng thủ ngay trên các đồi cát.

 

Vị trí của các TĐ TQLC


Nh́n lại phía sau, chúng tôi thấy cả một đám đông, rất đông bám sát theo sau chúng tôi. Thật là cảm động và xót thương cho đồng bào tôi, nhưng “t́nh dân quân cá nước” trong hoàn cảnh này th́ thật nguy hiểm cho cả hai bên. Chúng tôi mở đường hướng dẫn cho họ tiến về phía trước, xuôi Nam, nhưng h́nh như đồng bào không muốn rời xa chúng tôi!


Giữa băi cát bao la, trên trời ánh nắng chói chan rọi xuống, trước mặt là biển cả xanh ngắt, sau lưng là đầm Cầu Hai, đầm Hà Trung nước mênh mông, nhưng bi đông chúng tôi đă cạn khô, cổ chúng tôi đắng nghét v́ khói thuốc và khói súng, khát, khát và khát! Một chiếc trực thăng từ hướng Đà Nẵng bay ra và thả tự do xuống một số thùng gạo sấy để tiếp tế cho chúng tôi, gạo sấy lấy nước nào đổ vào để thành cơm?


(Sau này trong bài viết Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tướng Tư Lệnh TQLC th́ trực thăng đó là C&C của Tư Lệnh, người mang gạo ra tiếp tế chính là chánh văn pḥng, NT Nguyễn Quang Đan K21 và Tiểu Cần, v́ xin nhưng không c̣n trực thăng để tiếp tế lương thực và nước uống cho quân sĩ! Trực thăng bay đi đâu hết rồi!)


Đến chiều th́ gặp Trung Úy Hoàng Công Một K25 thuộc Tiểu Đoàn 5 TQLC điều quân, 2 thằng chỉ thăm hỏi nhau được vài câu và sau đó th́ ai làm phận sự người đó. Trung đội trưởng Cúc của ĐĐ H.C. Một đă hy sinh tại đây.

Đến tối th́ VC đă tấn công TĐ4/TQLC, Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam K22, Tiểu Đoàn Phó và Đại Úy Tô Thanh Chiêu, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 hy sinh..



Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 bị thương nhẹ do trúng miểng của cối 82 ly VC khi điều động M113 đánh chiếm mục tiêu.


Em ruột TT Liễn cũng bị tử thương vào buổi chiều.


Theo kế hoạch, 12 giờ khuya sẽ có tàu vào bốc, nhưng chờ măi chẳng thấy.


Ngày 26/03/1975, nh́n ra khơi thấy nhiều tàu của Hải Quân, lớn có nhỏ có. Đến trưa th́ có 1 chiếc tàu há mồm vào để bốc thương binh và BCH/LĐ. Một chiếc thứ 2 vào, nhưng lần này th́ không được may mắn như chiếc trước, địch đă dùng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 bắn vào ngay ống khói của tàu và tàu coi như bất khiển dụng. Một số chết và bị thương ngay trên tàu.


Kể từ giờ phút này, Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 nắm quyền Xử Lư Thường Vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ 147 TQLC. Theo kế hoạch của ông th́ TĐ7 bung rộng ra, sẽ là nốt chặn cuối cùng, làm an toàn băi bốc cho các TĐ bạn và TĐ7 sẽ là đơn vị cuối cùng lên tàu sau TĐ4, TĐ3, TĐ5 TQLC. Rất tiếc là chẳng có chiếc tàu nào vào bốc kể từ đó mặc dù đến chiều vẫn có lệnh là 8 giờ tối sẽ có tàu vào, rồi đến tối lại có lệnh là 12 giờ khuya sẽ có tàu vào…và chẳng bao giờ có tàu HQ vào đón chúng tôi. Đứng trên cát, tứ bề nước mênh mông, không nước, không đạn, nhưng chúng tôi c̣n có cấp chỉ huy và đồng đội.


Th/Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 kiêm xử lư thường vụ chỉ huy LĐ147/TQLC khi đó đă bắt liên lạc được với ngừơi bạn cùng K20 chỉ huy đoàn tàu LCM sẵn sàng bốc TĐ7 vào Đà Nẵng, nhưng Th/Tá Cang đă từ chối, không thể chỉ đi có TĐ7, mà phải ở lại cùng toàn thể Lữ Đoàn, trong đó có TĐ4 của NT Đinh Long Thành K19, TĐ5 của NT Phạm Văn Tiền K20, TĐ3 của NT Nguyễn Văn Sử K20. Tôi xin trích đoạn bài viết của Th/Tá Phạm Cang:


_ “10 giờ sáng ngày 25/3/75, trên tần số không lục tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiếu Tá Trần Văn Thao, anh chỉ huy đoàn tàu Quân Vận (LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em Mũ Nâu không. Nh́n quanh tôi chỉ thấy 5, 3 anh. Tôi cho Thao biết. Anh nói: “Tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, hăy chuẩn bị và đánh dấu băi bốc.”. Rất tiếc tôi không thể chỉ đưa TĐ7 đi, v́ c̣n trách nhiệm với các tiểu đoàn bạn. Tôi cám ơn Thao”.


Một tấm gương sáng khác của cấp chỉ huy mà tôi cần nhắc đến: Th/Tá Lê Quang Liễn, tải thương xác ngừơi em ruột lên tàu xong rồi vị Tiểu Đoàn Phó TĐ7 của chúng tôi nhẩy xuống biển, bơi trở lại vào bờ để cùng sống chết với chúng tôi.


Đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3 năm 1975, một đêm trăng sáng vằng vặc, biển động, nh́n ra xa vẫn thấy đèn của Hải Quân lấp lánh ngoài khơi… và chúng tôi “chôn súng”!


Những người lính TQLC đă bắn cháy chiến xa T54 của địch, đă bị hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 của địch bắn cháy tàu của họ. Họ đă nhai những hạt gạo sấy sau cùng vào ngày hôm qua, đă bắn những viên đạn cuối cùng vào ngày hôm nay. Và khi không c̣n ǵ để chiến đấu, họ đă tự đào hố để chôn súng, bản đồ, địa bàn, thẻ bài, bằng lái xe, bằng dù, thẻ quân nhân…và đă cắn răng chôn ngay cả cái nhẫn Vơ Bị, là vật bất ly thân của những sĩ quan xuất thân từ Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Những người lính Tổng Trừ Bị thuộc ĐĐ2/TĐ7/Lữ Đoàn 147 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến đấu và bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW: Prisoner Of War) như vậy đó.


Bất cứ ai, đừng bao giờ bảo Lữ Đoàn 147/TQLC là những hàng binh, nguy hiểm vô cùng, hăy cẩn thận trong lời nói, thưa các ông, xin nhắc lại: NGUY HIỂM VÔ CÙNG!!!


Riêng cá nhân tôi, 1 người lính VNCH, 1 kẻ chiến bại, tôi chưa bao giờ oán trách cấp chỉ huy của tôi dù là cấp Tiểu Đoàn Trưởng hay vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Đội. Cái nh́n của tôi chỉ là ở cấp chiến thuật, làm sao biết được cấp chiến lược… Bao nhiêu đắng cay, tủi nhục… đổ lên đầu kẻ chiến bại. Nếu sau khi mất QĐI, rồi QĐII, Hoa Kỳ giữ đúng cam kết với đồng minh VNCH, lại nhảy vào cuộc chiến, như đă xảy ra tại Triều Tiên năm 1953, nếu kết thúc cuộc chiến mà VNCH là kẻ chiến thắng, chúng ta sẽ nói ǵ? Nói ngược lại chăng? Hỏi tức là trả lời. Chúng ta hăy suy nghĩ 1 cách công bằng.


*

Một người bạn đă hỏi tôi sẽ làm ǵ nếu lịch sử được lập lại hay nếu có kiếp sau?


Vâng, câu trả lời của tôi là tôi sẽ lại t́nh nguyện thi vào Trường Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, rồi khi ra trường lại sẽ t́nh nguyện gia nhập lực lượng Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Và nếu được chọn lựa th́ tôi xin được chiến đấu dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Tư Lệnh Phó TQLC Nguyễn Thành Trí, Trung Tá Lữ Đoàn Trưởng TQLC Nguyễn Xuân Phúc, Trung Tá Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Phạm Cang, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Lê Quang Liễn v.v… Đó là những cấp chỉ huy mà tôi rất ngưỡng mộ và kính phục, trên chiến trường cũng như trong “tù trường”…



Người trong cuộc

Mũ Xanh Lê Khắc Phước

ĐĐ2/TĐ7/LĐ147/TQLC

--------------------------------------------------------

Phụ chú của HVR


Tại thôn An Dương, thuộc quận Phú Vang Huế, một địa điểm chỉ cách bờ biển Thuận An khoảng 2km về phía Nam, vào cuối tháng 3/1975, dân chúng địa phương sau cuộc chiến đă chôn cất rất nhiều chiến sĩ TQLCVN hy sinh ngay trên băi biển. Sau hơn 35 năm, nước biển đă lấn chiếm đất liền và nhất là trận băo lụt năm 1999 đă cuốn một số hài cốt ra khơi.


Với sự mong mỏi của đồng bào làng An Dương, nhất là những người đă tự tay chôn cất những người tử nạn, từ bao nhiêu năm nay, là làm sao để cải táng và di chuyển những hài cốt xiêu lạc này vào một khu đất khô ráo xa bờ biển; đến tháng 7/2010, với sự trợ giúp tài chánh của người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại, Hoa Kỳ và Canada, đồng bào thôn An Dương đă di chuyển hài cốt của các tử sĩ VNCH từ ngoài bờ biển vào đất liền với mộ phần khang trang, có bia mộ và nhà lăng.


Trong dịp này người dân thôn An Dương chỉ t́m thấy 132 bộ hài cốt gói trong poncho. Trong số bộ hài cốt này, tiếc thay, chỉ có 7 thẻ bài và một căn cước của những người đă hy sinh.


Số 132 bộ hài cốt này được cải táng, mỗi hài cốt được đặt vào một tiểu sành riêng, loại quan tài nhỏ gọi là cách tiểu hay quách. Mỗi mộ phần có đánh dấu nhưng chỉ mộ của di cốt nào có thẻ bài mới có tên trên bia mộ.


Một vài h́nh ảnh trên báo chí Việt ngữ (hải ngoại) về khu vực cải táng và xây mộ những chiến sĩ TQLC/VNCH đă hy sinh tại Thuận An, cuối tháng Ba, 1975.

 










Khu mộ tập thể 123 mộ, chia làm 4 khu, ở giữa là bia thờ



 

 


Văn


Hỏi ngă chánh tả tự vị
Cách sử dụng "I" và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi & ngă" trong tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong tiếng Việt
Xưng hô tiếng Việt...


Các cấp chỉ huy và đồng đội TQLC

Lạng Sơn Bùi Thế Lân
Tango Nguyễn Thành Trí


Tôi đi khám Bás Sĩ
Bóng người hay bụi sương?
Lần đầu nhập trận
Cố Trung Tá Nguyễn Văn Nho
Trước sau như một!
Louisiana 2023 – Rằn Ri gặp mặt
Môt ban nhạc lạ đời
Những điều ít người biết về bài hát "Kỷ vật cho em"
An Dương
Ngược ḍng thời gian
Người lính cuối cùng
T́m tự do
Tù cải tạo…Những nỗi buồn khó phai
Danh sách Quân Dân Chính chết trong tu cải tạo
Đón xuân này nhớ xuân xưa
"Tù cài tạo" - Những nỗi vui buồn khó quên
Trở lại Cổ Thành
Những ngộ nhận về chiến tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ
Gặp gỡ Chú Long Hồ
Tango: Ngày này năm xưa! Ngày này năm nay!
Saigon đă tṛn năm
Ngày về từ rừng núi Hiệp Đức
Trường Sơn bỏ lại sau lưng
Cuộc hành tŕnh
Bên kia bờ sông Thạch Hăn
Chung g̣ng định phận
Kỷ niệm cổ thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị 1972
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Cố vấn TQLCHK trao Bronze Star cho NT Đặng Bá Đạt
Nhật Kư Cali: Ngàn năm mây bay
Quỳ hôn đất thân yêu
Sau 46 năm nước mắt vẫn c̣n rơi!
Chuyện mắc dịch
Vui buồn cùng Cọp Biển
Cái ǵ của Cesar … Cái ǵ của Thương Phế Binh …
Hỏng rồi tiếng nước tôi !!! Phần 1 - Phần 2
Bạn tôi, người y tá tên Ri
Hai bà chị
Trận đánh tháng 3/75 Quân Khu I
Thu hát cho người
Sự nghiệp 4 chữ, lư tưởng 2 chữ
TĐ2/TQLC Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Trung Đoàn Tăng-Thiết Giáp 202
T́nh với Nghĩa
Xuân ở nơi nào?!
Tuổi 70, Chán mớ đời!
Họ nhà "Cu"
Con sáo bạc má và người tù
Quân khu IX ơi. Chào mi!
Chuyện về bức tượng TQLC
Tháng 3, kư ức về anh
Ngày ra trại
Một buỗi chiều xuân
Đêm xuân Đà Lạt
Nhánh mai vàng
Phục Hưng Tự