Thơ

Trang thơ Nguyễn Minh Châu
Thơ - Tuấn TT
Chùm thơ Đông Hương
Thơ - Huy Văn


Thơ Văn 2020
Thơ Văn 2019
Thơ Văn 2018
Thơ 2017 - 2022
Thơ Văn 2023


Huynh đệ chi binh
Quanh thau rượu
Hoàng hôn bên đồi
Nén hương mùa kiếp nạn
Tháng Tư… Trang sử…
Thằng lính già thương cảm
Thằng lính già cô độc
Thằng lính già ngủ mơ
Thằng lính già hoài niệm
Thằng lính già nhớ bạn
Phục Sinh nhiệm màu
Thương tích
Nửa đêm tỉnh giấc
Vá cờ
Xuân...và Quê tôi
Đă 50 năm
Ai nợ ai…?
Nỗi ḷng viễn xứ
Quà tặng
Quê hưong ngàn trùng
Đừng gọi tôi là ân nhân
Mùa Thu đất khách
Quê hương tôi đánh mất
Từ biệt đồng đội
Dậy đi em
Ngày chia tay
Hương xưa của tôi
Nặng trĩu niềm dau
Nổi sầu muôn thuở
Thương em…
Đếm Sao…
Hè về không Phượng đỏ
Về thăm chốn xưa
Ḍng Đời …
Ước mơ Phá Tam Giang
Ánh trăng xưa
Anh hùng tử, khí hùng bất tử
Một bài thơ không tên
45 năm đợi chờ & mơ ước
Sài G̣n yêu
Ngày đại thọ
Ḷng sơn gửi tạm giữa đất trời
Mông lung
Ḥn khô
Đêm ngủ tôi mơ
Cali mùa hạnh ngộ
Nhớ măi
Vẫn t́m em
Tháng tư hành
Gánh phù vân
Quốc hận
Nhắn lời
I am a soldier born to die
Tháng 2! Xuân vẫn ngát hương đời
Nhớ xuân xưa
Xin em
Cũng đành thôi
Đêm xuân nhớ mẹ
Mừng sinh nhật
Phút cuối
Đoản khúc Đà Lạt
Chờ
Hương ḷng
Nỗi ḷng biết ngỏ cùng ai ?
Cho anh nói lời xin lỗi với thằng em
Hồn thức giấc
Khóc cho người nằm xuống
Vọng cố hương… nỗi nhớ
Nỗi niềm riêng
Hương xưa của tôi
Mùa Trạng Nguyên

 

 

 

 

 

 


An Dương


An Duong
 
Lời giới thiệu của người viết:

Hàng năm, khi tháng Tư trở lại, người Việt tị nạn lại bâng khuâng nhớ về những khổ hận khi miền Nam sụp đổ. Tuy nhiên, đối với những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, tháng Ba mới là tháng đau thương nhất. Rất nhiều người đă gục ngă trên các tuyến đường rút quân đầy hỗn loạn.
Với bài viết này, người viết xin chia sẻ nỗi đau “tháng Ba lại về” với các chiến sĩ VNCH và dâng lời tạ ơn đến các chiến sĩ đă bỏ ḿnh để bảo vệ miền Nam trong suốt hai mươi năm.
 
Thăm Mộ Ở An Dương
 
An Dương là một làng chài rất nhỏ nằm trên một rẻo cát dài và hẹp, bốn bề là nước. Đứng tại An Dương quay nh́n ra biển th́ sau lưng là Đầm Thanh Lam thông với Phá Tam Giang, bên trái là cửa Thuận An, bên phải là cửa Tư Hiền. Thời trước 1975, ngoài dân địa phương th́ chỉ có những người lính chiến đă bôn ba khắp miền Trung là biết tới nơi này. Nhỏ xíu, tách biệt, nghèo, và buồn tênh.
 
Tôi chưa từng đến An Dương nhưng đă nghe cái tên đó trong những câu chuyện rất buồn. Đúng hơn, đó là những kư ức đau đớn, khốc liệt đến nỗi người kể vẫn có thể rơi nước mắt, dù họ đă từng dựa lưng cái chết, dù mấy chục năm đă trôi qua. Họ là những quân nhân thuộc Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hoà (TQLC VNCH).
 
Tháng 3, 1975, v́ một lư do cho đến nay vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ, An Dương đă được chọn làm băi bốc cho Lữ Đoàn 147 TQLC trong cuộc rút quân về Nam.
 
Trong hai ngày 25 và 26 tháng 3, 1975, khoảng hai ngàn tám trăm quân nhân Mũ Xanh đă tụ tập trên băi biển An Dương, ngóng đợi tàu đón về Vũng Tàu. Pháo của Cộng quân từ bên kia Phá Tam Giang liên tục nă sang, chuyến tàu đầu tiên chỉ kịp bốc một số thương binh và thi thể của những người tử trận rồi vội vă quay đi. Gần cả Lữ Đoàn c̣n lại tiếp tục chờ. Đạn dược và thực phẩm sắp cạn, họ ngồi phơi ḿnh trên cát, ngay dưới tầm bắn của địch. Trong ṿng vây của giặc thù, giữa trời, nước mênh mông, họ chỉ biết cố gắng che chở cho nhau. Rất nhiều người đă chết.
 
Tối ngày 27 tháng 3, 1975, mọi liên lạc với cấp trên chấm dứt. Những chiến sĩ TQLC quyết định mở đường máu dọc theo bờ biển để về Nam, nhưng tất cả bị lọt vào tay Cộng quân khi đă chiến đấu đến viên đạn cuối.
 
Không ai biết rơ bao nhiêu người đă tử nạn ở An Dương, bởi v́ sau khi những người sống sót bị tù đày, chẳng ai có thể t́m hiểu về những người đă mất. Nhiều xác đă trôi ra biển, nhiều người đă chôn trong bụng cá, nhưng cũng có hàng trăm xác nằm lại trên bờ. Dân làng An Dương đă thu gom tất cả những xác mặc quần áo lính và chôn họ trong vài hố tập thể lớn ngay trên bờ biển. Sau mấy chục năm sau vật đổi sao dời, các hầm chôn dần phai dấu. Thêm nữa, biển ăn sâu vào trong đất liền, lan đến các hố chôn, cuốn đi một phần xương cốt…
 
Tháng 7 năm 2010, một phụ nữ quê ở An Dương đă từ Mỹ trở về với số tiền quyên được của những người có ḷng ở hải ngoại. Cô cùng người dân địa phương đào các hố chôn cũ lên, gom góp lại được một trăm ba mươi hai bộ xương cùng mười hai tấm thẻ bài rỉ sét rồi đem chôn trên đồi cát cao, quay nh́n ra biển. Lần đó, người dân ở An Dương không những góp công sức mà c̣n góp tiền vào việc xây mộ.
 
Tin tức từ mười hai tấm thẻ bài đă được công bố trên nhiều diễn đàn, và trong số đó có năm người đă được gia đ́nh đến nhận sau ba mươi lăm năm lưu lạc. Bảy tấm thẻ bài c̣n lại đă được trao cho Tổng Hội TQLC VNCH ở Mỹ; sau đó, những kỷ vật quư báu này được tặng cho Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Việt Nam ở Nam California.
 
Từ đó đến nay, Tổng Hội TQLC đă trùng tu mộ và nhờ người thăm viếng hàng năm.
 
Qua những bài viết của các chiến sĩ Mũ Xanh, tôi được biết về ngôi mộ đó và nhủ ḷng sẽ t́m về thăm khi có dịp…
 
                                                            * * *
 
Nhưng, nếu suy tính kỹ lưỡng, c̣n khá lâu nữa tôi mới về An Dương.
 
Đầu tháng 9, 2022, khi nhà trường cho biết tôi không có lớp dạy trong khoá mùa Thu th́ mùa mưa băo ở Việt Nam đă bắt đầu. Nếu theo dơi dự báo thời tiết, nếu đắn đo với những “lỡ mà…” th́ chắc tôi đă chờ khi khác.
 
Nhưng tôi vốn thích cái phóng khoáng của những quyết định “bốc đồng”. Được rảnh rỗi th́ về Việt Nam thôi. Có nhiều việc muốn làm, nhân thể gặp vài người bạn thân đang ở đó. Thế là chỉ sau vài ngày sắp xếp, vợ chồng tôi lên đường.
 
Sài G̣n đón chúng tôi bằng những cơn mưa lớn. Tuy vậy, mưa mau tạnh nên đường phố không bị ngập lụt. Một người bạn tặng tôi cái áo mưa, và tôi không ngại ướt ống quần, nên mưa Sài G̣n chẳng làm phiền tôi. Trời ít nắng càng thích hợp để lang thang, và những cơn mưa đă gợi lại niềm bâng khuâng khó tả. Lâu lắm rồi tôi mới có dịp ngồi trong quán cà phê ngắm mưa rơi mù trời, mới nghe lại tiếng mưa rơi sầm sập trên mái...
 
Sau đó, tôi lên kế hoạch đi An Dương. Qua sự giới thiệu của các chú trong TQLC, tôi sẽ đến gặp anh L, một thân hữu ở Đà Nẵng. Từ Đà Nẵng, anh L sẽ cùng chúng tôi đi xe hơi ra Huế rồi đến An Dương, tổng cộng khoảng 120 cây số. Theo chương tŕnh, chiều 28 tháng 9, 2022, tôi bay vào Đà Nẵng và sáng sớm 29 tháng 9, 2022 chuyến đi An Dương sẽ bắt đầu.
 
Nhưng, mùa mưa băo ở miền Trung khác xa ở Sài G̣n.
 
Từ vài ngày trước chuyến đi, mọi phương tiện truyền thông đă xôn xao đưa tin về cơn băo Noru rất lớn sắp đổ vào khu duyên hải miền Trung. Bạn bè lo lắng cho chúng tôi nên nhắn tin tới tấp.
 
Tin 25 tháng 9: chính quyền thành phố Đà Nẵng gửi công điện khẩn yêu cầu các sở, ban ngành, địa phương thực hiện các biện pháp pḥng chống cơn băo lớn.
 
Tin 26 tháng 9: các sân bay Đà Nẵng, Phú Bài, Phù Cát, Pleiku sẽ tạm ngừng tiếp nhận máy bay từ 12 giờ trưa ngày 27 tháng 9 đến 12 giờ trưa ngày 28 tháng 9.
 
Tin sáng 27 tháng 9: trước diễn biến khó lường của băo Noru, lănh đạo thành phố Đà Nẵng quyết định ngưng họp chợ và cho công chức, người lao động nghỉ làm từ trưa 27 tháng 9 để hạn chế ra đường.
 
Tin chiều 27 tháng 9: chính quyền thành phố Đà Nẵng yêu cầu người dân ở nhà tránh băo. Tuyệt đối không ra đường từ 20 giờ cho đến khi có thông báo tiếp theo.
 
Tin cập nhật lúc 19 giờ tối, 27 tháng 9: tâm băo Noru hiện ở ngoài biển Đông, cách đất liền khu vực Đà Nẵng - Quảng Ngăi khoảng 180km. Sức gió mạnh nhất vùng gần tâm băo lên tới cấp 13-14 (134 - 166 km/giờ), sức giật tới cấp 16. Dự báo trong 12 giờ tới, băo sẽ di chuyển theo hướng Tây, tiến vào đất liền với vận tốc 20 - 25km / giờ.
 
Như vậy, Đà Nẵng sẽ lănh trọn cơn băo vào khoảng 3 giờ sáng ngày 28 tháng 9. Người quen ai cũng ái ngại dùm chúng tôi. Ông anh tôi nói thẳng, “Thôi, cô chú đừng đi. Có ai đang yên lành mà đem thân đi vào rốn băo!”
 
Chúng tôi cũng lo, nhưng vẫn tiếc dịp đến thăm An Dương. Nếu lỡ dịp này th́ chẳng biết khi nào chúng tôi mới trở lại Việt Nam. Tôi đă mấy lần định huỷ chuyến bay. Nhưng, anh L, người đang ở ngay tại Đà Nẵng, lại rất b́nh tĩnh. Trước đêm băo đổ bộ Đà Nẵng, anh vẫn nói chắc nịch, “Theo anh, 80% là băo sẽ qua nhanh, ḿnh sẽ đi được. Cứ theo dơi t́nh h́nh tới phút chót, nhé.”
 
6 giờ sáng ngày 28 tháng 9, tôi gọi anh L, “Đêm qua băo vào có mạnh lắm không anh?” Anh Long đáp, “Anh đang đứng trên sân thượng đây. Mưa tạnh rồi, trong công viên trước nhà chỉ có một ít nhánh cây bị găy. Xem ra băo đi qua Đà Nẵng nhẹ hơn dự đoán!”
 
Mở máy tính xem lại th́ chuyến bay lúc 2 giờ 30 chiều của chúng tôi là chuyến đầu tiên được phép đáp xuống Đà Nẵng! Thế là chúng tôi đi.
* * *
Chúng tôi ra khỏi phi trường Đà Nẵng lúc 4 giờ chiều ngày 28 tháng 9.
 
Xe cộ qua lại thưa thớt, khá nhiều cửa hàng c̣n đóng làm cho Đà Nẵng mang vẻ ngơ ngác của một đứa bé vừa qua cơn bệnh nặng. Nhưng trời Đà Nẵng trong veo, biếc xanh, và cả thành phố đă khô ráo, sáng sủa đến không ngờ.
 
Khách sạn vắng tanh v́ hầu hết mọi người đă huỷ chuyến đi Đà Nẵng, nhưng đêm đầu tiên của chúng tôi ở nơi này rất thoải mái, b́nh yên.
 
B́nh minh ngày 29 tháng 9, 2022, trời sáng trong, những tia nắng dịu dàng báo hiệu một ngày tươi đẹp.
 
Anh L và người em tên T đến đón vợ chồng tôi lúc 6 giờ sáng và bốn người lên đường ngay. Anh L là mối dây liên lạc của Tổng Hội TQLC với ngôi mộ tập thể v́ anh có người thân đang sống tại An Dương. C̣n T trước đây làm trong ngành du lịch, và đă từng nhiều lần lái xe cho cựu chiến binh Mỹ đi thăm lại những chiến trường xưa từ Đà Nẵng đến sông Bến Hải. Được T chở đi lần này cũng là một duyên may của chúng tôi.
 
Quốc Lộ 1 ở Việt Nam hiện nay đă được mở rộng với t́nh trạng khá tốt. Dưới “tay lái lụa” của T, chiếc xe SUV của chúng tôi lướt êm ru, đến Huế lúc mới hơn 8 giờ. Sau khi dừng chân ăn sáng, chúng tôi theo Quốc Lộ 49 đi về phía Bắc, băng qua thành phố Huế, rồi bắt vào Quốc Lộ 49B tiến về phía Biển Đông.
 
Qua Thuận An, Quốc Lộ 49B rẽ sang hướng Nam, chạy giữa Phá Tam Giang và bờ biển. Thời xa xưa, Phá Tam Giang có tiếng là một vùng nước xoáy hiểm trở, thuyền bè qua đây bị đắm rất nhiều, v́ thế phá đă đi vào ca dao bằng những lời năo nuột, “Phá Tam Giang ai xây mà có, Thiếp thương chàng biết thuở nào nguôi?” hay “Thương em anh cũng muốn vô, Ngại Truông Nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang.” Thế mà bây giờ phần cuối của Phá Tam Giang nơi chúng tôi đi qua có vẻ không sâu lắm, với làn nước màu rêu đậm, lặng lờ. (Không chỉ nơi này mà các sông, rạch, đầm, phá ở Việt Nam đều có vẻ không được chăm vét đúng cách cho nên nơi nào cũng cạn đi và nhỏ lại.)
 
Tuy không hùng vĩ như tôi tưởng, Phá Tam Giang vẫn đem lại cho tôi lắm bồi hồi. Ngày tôi c̣n nhỏ, nơi đây đă trở thành quen thuộc với người dân thị thành qua những lời hát thiết tha“Chiều trên Phá Tam Giang, anh chợt nhớ em…” (1) Bây giờ đi qua đây, tôi thấy thương vô cùng những người lính đă đứng ở nơi này, quay quắt dơi về hậu phương khi chiều buông xuống. Trong tuổi thơ tôi, tôi đă nhiều lần gặp họ trên các nẻo đường. Những người trai rất trẻ, súng đạn oằn lưng, bơ phờ, đen đúa v́ đă dầm mưa, dăi nắng trên khắp mọi miền để đẩy lui quân xâm lăng cho đám trẻ thơ chúng tôi được yên ổn học hành…
 
 
Đi một lát, Quốc Lộ 49B thu hẹp lại, len lỏi giữa dăy nhà dân và đồi cát cao che khuất bờ biển. Điều đặc biệt là suốt mấy cây số sau đó, trên đồi toàn là những ngôi mộ chạm trổ cầu kỳ, tô vẽ rực rỡ, có những ngôi to như cái lăng nhỏ. Dưới chân đồi, sát mặt đường c̣n có những ngôi nhà thờ họ bề thế. Những trang trí rồng phượng, hoa lá đủ màu thi nhau khoe vẻ sang trọng và diêm dúa.
 
Anh L và T giải thích rằng những ngôi làng nhỏ sát biển này có rất nhiều gia đ́nh ngư dân vượt biển t́m tự do vào những thập niên 1970, 1980. Sau khi ăn nên, làm ra ở nước ngoài, họ đă áo gấm về làng, xây lại mộ tổ tiên, và dựng nhà thờ cho ḍng tộc. Các đồi cát hoang này không được quy hoạch rơ ràng nên người dân cứ mặc sức kiếm chỗ, khoanh vùng, rồi xây mộ.
 
Một lát sau, xe chúng tôi tiến vào An Dương. Hiện nay, An Dương là một thôn nhỏ xíu thuộc xă Phú Thuận, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
 
Ngôi mộ tập thể ở An Dương cũng nằm trên một đồi cát gần biển. Theo chú Long Hồ, Tổng Hội Trưởng Tổng Hội TQLC VNCH 2018-2022, mộ đă được sơn lại một lần nằm 2019. Màu xanh lục đă được chọn để gợi nhớ màu Mũ Xanh xưa. Trước đây, có lẽ ngôi mộ này là một trong vài ngôi mộ nằm rải rác trên đồi cát ở An Dương, nhưng đến nay các đồi đều bị bao phủ bởi vô số mộ lớn, nhỏ. Nơi này không có địa chỉ, cũng không hiện hữu trên bản đồ nên khá khó t́m.
 
cho an duong
Chợ An Dương (h́nh trên Youtube)
 
Để t́m ngôi mộ, chúng tôi phải bắt đầu từ điểm mốc là Chợ An Dương, ngôi chợ duy nhất của thôn. Tuy anh L đă đến đây một lần, chúng tôi vẫn không nh́n thấy ngôi chợ bé xíu khi đi ngang qua. Cũng may anh L c̣n nhớ đường nên đă kịp ṿng lại trước khi đi quá xa.
 
Những người thân của anh L sinh ra và lớn lên ở An Dương, và hiện nay có nhà ngay trước chợ. Tuy nhiên, đa số những người lớn tuổi từng đến thăm mộ đă đi Mỹ định cư, giờ chỉ c̣n vài người trung niên là có nghe nói lờ mờ về ngôi mộ. Tuy vậy, họ vẫn rất hăng hái dắt chúng tôi đi t́m. Có cả một cậu thanh niên trẻ, thuộc vai cháu trong nhà, cũng đi theo. Những người dẫn đường lái xe máy đi trước, xe hơi của chúng tôi – bỗng nhiên trở thành kềnh càng trên con ngơ quê lồi lơm, nhỏ hẹp -- khập khễnh chạy theo sau.
 
Bắt đầu từ điểm mốc là chợ An Dương, chúng tôi đi ngược Quốc Lộ 49B về phía Bắc khoảng một trăm mét rồi rẽ phải vào Kiệt 15, đi ra biển. Kiệt 15 là một con ngơ nhỏ xíu, chỉ vừa lọt một chiếc xe hơi. Chỉ có T với tay lái lăo luyện, đôi mắt sành sỏi, và sự tự tin của người đầy kinh nghiệm mới chở được chúng tôi qua những ngóc ngách này.
 
Đi vài trăm mét, chúng tôi rẽ trái vào Kiệt 15/1, là một con đường đất gập ghềnh. Đi thêm một chút th́ đường được đổ bê tông nhưng lâu ngày đă loang lổ, chỗ mất chỗ c̣n. Theo con đường bê tông đi thêm vài trăm mét nữa th́ bên trái xuất hiện đồi cát có đầy mộ giống như cảnh đă thấy trên đường đến An Dương. Đỉnh đồi cát khá cao, từ đường nh́n lên chỉ thấy những ngôi mộ nằm la liệt trên sườn đồi, c̣n các mộ ở đỉnh đồi th́ chỉ lấp ló phần chóp mái. Trong những ngôi mộ mà chúng tôi nh́n thấy, không có ngôi nào màu xanh lục.
 
Đi thêm một chút th́ anh L gọi mọi người dừng xe. Đến đây th́ những người dẫn đường và anh L bắt đầu bối rối. Khi anh L đến đây vào mấy năm trước, mộ c̣n rải rác và anh đă dễ dàng nh́n thấy ngôi mộ tập thể lớn, sơn màu xanh ở gần đoạn đầu của đồi cát. Bây giờ, cả một quăng đồi dài bị bao phủ bởi hàng trăm ngôi mộ, ngôi trước che khuất ngôi sau, trông quá khác xưa.
 
Mọi người chia nhau đi t́m. Trong khi mấy người lớn c̣n đang loanh quanh ở gần đường, cậu cháu trẻ đă nhanh chân leo lên đỉnh đồi. Sau một lúc đi ṿng vèo giữa đám mộ, cậu ta đành cầu cứu người biết rơ hơn về địa thế của khu này. Cậu ấy gọi điện thoại cho ông trưởng thôn An Dương.
 
Có lẽ ông trưởng thôn đi lên đồi theo một con đường khác, nên chúng tôi không nh́n thấy ông ta. Khi cậu thanh niên reo lên là đă t́m thấy mộ, chúng tôi mừng rỡ trèo lên. Con dốc từ chân đồi lên đến ngôi mộ chỉ khoảng hai trăm mét nhưng phải đi ṿng qua nhiều ngôi mộ. Lúc nh́n thấy ngôi mộ lớn màu xanh lục, chúng tôi thở phào. Đúng là đây rồi!

 
An duong 2
Chụp từ con dốc đi lên. Ngôi mộ màu xanh lục, nằm cách chân đồi khoảng 200m
 
Trí nhớ của anh L quả là tốt v́ ngôi mộ nằm ngay phía trên vị trí đậu xe, nhưng bị các mộ mới che khuất. Tôi nh́n quanh, cố đánh dấu nơi chốn th́ thấy đối diện chân đồi nơi xe đậu, bên kia con đường nhỏ, là bức tường dài màu vàng xỉn của một khu nuôi tôm, cá, nghe nói thuộc một trường đại học về thuỷ sản. Xeo xéo chỗ đậu xe có ba bức tường thấp quây quanh một băi rác nhỏ.
 
 An duong 3
An duong 4
Toàn cảnh ngôi mộ tập thể
 
Vị nữ lưu xây khu mộ này chắc đă để tâm lập nên một nơi trang nghiêm xứng đáng, v́ thế, khu mộ rất rộng. Chiều ngang khu mộ hơn ba mươi mét, chiều sâu khoảng mười lăm mét. Khu mộ được bao quanh bằng một ṿng tường thấp sơn màu xanh lục có viền vàng và cam, chính giữa mở thành cổng và có bậc để đi lên. Phía trong tường là sáu ngôi mộ lớn, bốn ngôi nằm phía sau, hai ngôi nằm phía trước bên cạnh cái miếu nhỏ với mái cao và bốn cột đắp rồng phượng. Bên trong miếu là tấm bia lớn màu trắng, khắc chữ đỏ: Thập Loại Cô Hồn Hiển Hách Chi Mộ. Đằng sau miếu, mỗi bên c̣n có một tấm bia nhỏ hơn, cũng ghi hàng chữ trên. Ở cạnh bốn nấm mộ phía sau c̣n có mấy tấm bia cá nhân nằm rải rác dọc theo thành mộ.
 
Chúng tôi vội chạy đến quét dọn và bày lễ vật trước ba tấm bia. Trong sự vui mừng, tôi không nh́n thấy một người đàn ông lạ đang đứng gần đó. Cho đến khi anh L tiến đến bắt tay và giới thiệu ông ta là trưởng thôn, tôi mới chợt lo. Đó là người đại diện của nhà cầm quyền tại đây, không biết ư nghĩ của ông ta ra sao trước những người khách lạ về viếng mộ của những người lính Cộng Hoà. Tôi cúi chào ông ấy rồi tiếp tục cắm hương v́ không biết nói ǵ thêm; ông ta cũng im lặng. Anh L hỏi ông ta có muốn nói vài câu về lai lịch của ngôi mộ, như một gợi ư cho ông ta nhắc đến tấm ḷng của người dân An Dương đối với người đă khuất. Nhưng ông ta lắc đầu từ chối rồi bỏ đi. Tôi thở phào nhưng cũng hơi tiếc v́ không hỏi được ǵ về những người đầu tiên đă chôn cất mấy trăm cái xác trên bờ biển. Trong số những người địa phương đă hai lần lập mộ, chắc vẫn c̣n một vài người sống tại An Dương. Tuy nhiên, nhiều năm đă trôi qua, chắc ít ai muốn khuấy động lại chuyện cũ.
 
Nh́n theo ông ta đi xuống đồi, tôi chợt hiểu ra rằng người dân quanh vùng rất tin những chuyện tâm linh và có lẽ cũng kính quư những người nằm trong mộ không khác ǵ tôi. Sau này, tôi c̣n nghe nói rằng nhiều người dân An Dương tin là các vong linh nơi đây đă phù hộ cho họ ăn nên, làm ra. Ngôi mộ tuy không được thăm viếng thường xuyên nhưng vẫn nằm trong sự che chở tử tế của An Dương. Dù sao, An Dương cũng từng là một phần của đất nước mà những chiến sĩ nằm đây đă đổ máu để ǵn giữ, và có lẽ dân trong thôn cũng đă mất đi những người con trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam năm xưa.
Quay lại ngắm nh́n khu mộ, tôi càng thấy cảm t́nh của dân địa phương dành cho những người đă hy sinh vẫn c̣n rơ nét. Những người lập mộ đă trân trọng ǵn giữ những thông tin nhỏ nhoi mà họ thu nhặt được sau hai lần dâu bể. Năm 1975, có lẽ hầu hết những xác quân nhân trên bờ biển đều có đeo thẻ bài, nhưng đến năm 2010 chỉ c̣n lại vài tấm thẻ lẫn trong các khúc xương. Những kỷ vật hiếm quư ấy đă được giữ ǵn cẩn thận, và những tên tuổi cùng số quân thu được vẫn c̣n rơ nét trên những tấm bia cá nhân. Có lẽ những người lập mộ vẫn hy vọng có thêm thân nhân đến t́m, hay họ cảm thấy mỗi người nằm đây đều xứng đáng được biết tên.
 
Tôi đi ṿng quanh, đọc từng cái tên, và lặng ḷng trong niềm đau xót. Những người nằm đây đă không nhắn được một lời cho những người thân yêu của họ vào giây phút cuối! Mỗi một người đă là con, anh, người yêu, chồng, cha của ai đó. Người thân của họ đă đau đớn biết bao nhiêu? Đă trông chờ, t́m kiếm trong bao lâu? Và bây giờ, cha mẹ họ hầu hết đă khuất, những người vợ đă già, những người con đă lớn. Có ai c̣n măi rơi nước mắt khóc thương hay đau đáu t́m tin người mất tích?
 
Cát An Dương trắng ngà như màu khăn tang cũ trên sáu nấm mộ khổng lồ. Gió nhè nhẹ thổi khói hương bay lăng đăng trong cái tĩnh mịch, buồn.
Đă đến lúc phải đi, nhưng tôi vẫn dùng dằng. Tôi thấy thấm thía câu hát “Rưng rưng tôi chắp tay, nghe hồn khóc đến rướm máu, Quê hương non nước tôi ai gây hận thù, tội t́nh…” (2). Thương vô cùng mấy trăm thanh niên đă mất đi mạng sống một cách tức tưởi vào những ngày cuối của sứ mệnh bảo vệ miền Nam. Tuổi trẻ và ước mơ của họ giờ chỉ c̣n là những mảnh xương tàn nơi gió cát.
 
Cuối cùng chúng tôi cũng chầm chậm bước xuống đồi. Đến xe, tôi mới nhận ra rằng mùi hương trầm đă theo gót chúng tôi cho đến khi cửa xe đóng lại.
Ngày hôm sau, khi chúng tôi đang lên máy bay về Sài G̣n, trời chuyển mưa. Và chỉ một thời gian ngắn sau, băo lớn kéo về làm ngập lụt đường phố, chặn đứng mọi xe cộ ra, vào Đà Nẵng.
 
Tôi tin rằng những chiến sĩ nằm lại ở An Dương rất mong mọi người nhớ đến họ, và sự việc chúng tôi bất ngờ t́m về đến nơi cũng là do mong muốn của họ mà thành. Có phải họ đă hợp lời xin Trời cho một ngày nắng đẹp hi hữu ngay giữa mùa băo lớn để chúng tôi đi đến nơi, về đến chốn? Có phải họ đă kiếm người đem chúng tôi về để ghi lại đường cho những người khác c̣n t́m đến?
 
Cuộc chiến Việt Nam đă cướp đi biết bao thanh niên ưu tú và để lại vô vàn khổ đau cho người thân của họ. Ngọc đă đắm, châu đă ch́m, thời gian đă qua. Nhưng ḷng nhớ ơn của những người được hưởng tự do và b́nh an -- đánh đổi bằng xương máu của những người đă nằm xuống, th́ nên c̣n, măi măi.
 
Khôi An
 
Về tác giả: Khôi An định cư ở Bắc California. Cô là một kỹ sư từng làm việc ở hăng Intel hơn hai mươi năm. Sau đó, Khôi An trở lại trường lấy bằng Master về Ngôn Ngữ Học rồi đi dạy tiếng Việt ở các trường đại học vùng Vịnh San Francisco. Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008, cô đă nhận giải Chung Kết 2013. Sang năm 2015, thêm giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho những nỗ lực phát huy văn hóa Việt trên đất Mỹ. Từ 2016, cô là thành viên Ban Tuyển Chọn Giải Thưởng Việt Báo VVNM.
 
(1)   Chiều Trên Phá Tam Giang – Nhạc Trần Thiện Thanh, thơ Tô Thuỳ Yên
(2)   Đêm Nguyện Cầu - Nhạc và lời Lê Minh Bằng.

 

Chợ An Dương: https://www.youtube.com/watch?v=S_xWjQ_b4cA

Nguồn: https://vvnm.vietbao.com/a247780/an-duong

 

 


Văn


Hỏi ngă chánh tả tự vị
Cách sử dụng "I" và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi & ngă" trong tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong tiếng Việt
Xưng hô tiếng Việt...


Các cấp chỉ huy và đồng đội TQLC

Lạng Sơn Thiếu Tướng Bùi Thế Lân
Tango Đại Tá Nguyễn Thành Trí
Sài G̣n Đại Tá Tôn Thất Soạn


Chuyện t́nh buồn
Ḿnh ơi! Em muốn...
Đây Long Giao, Suối Máu
Người hùng TQLC Trần Ba
Poncho
Quân Cán Chính VNCH chết trong trại tù "Cải Tạo"
Bão Beryl và Đại Hội 2024
Đại Hội 2024: Những tấm chân t́nh của Đại Gia Đ́nh TQLC
Người về từ thành cổ
Đại Hội TQLC 2024 tại Houston
Houston - Chuyện bên lề
Thương Phế Binh, Ông Là Ai?
Ḷng biết ơn nhân ngày Lễ Những Người Cha 2024
Một ngày không thể quên
Giầy Saut trong tử địa
Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc
Tôi đi khám Bás Sĩ
Bóng người hay bụi sương?
Lần đầu nhập trận
Cố Trung Tá Nguyễn Văn Nho
Trước sau như một!
Louisiana 2023 – Rằn Ri gặp mặt
Môt ban nhạc lạ đời
Những điều ít người biết về bài hát "Kỷ vật cho em"
An Dương
Ngược ḍng thời gian
Người lính cuối cùng
T́m tự do
Tù cải tạo…Những nỗi buồn khó phai
Danh sách Quân Dân Chính chết trong tu cải tạo
Đón xuân này nhớ xuân xưa
"Tù cài tạo" - Những nỗi vui buồn khó quên
Trở lại Cổ Thành
Những ngộ nhận về chiến tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ
Gặp gỡ Chú Long Hồ
Tango: Ngày này năm xưa! Ngày này năm nay!
Saigon đă tṛn năm
Ngày về từ rừng núi Hiệp Đức
Trường Sơn bỏ lại sau lưng
Cuộc hành tŕnh
Bên kia bờ sông Thạch Hăn
Chung g̣ng định phận
Kỷ niệm cổ thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị 1972
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Cố vấn TQLCHK trao Bronze Star cho NT Đặng Bá Đạt
Nhật Kư Cali: Ngàn năm mây bay
Quỳ hôn đất thân yêu
Sau 46 năm nước mắt vẫn c̣n rơi!
Chuyện mắc dịch
Vui buồn cùng Cọp Biển
Cái ǵ của Cesar … Cái ǵ của Thương Phế Binh …
Hỏng rồi tiếng nước tôi !!! Phần 1 - Phần 2
Bạn tôi, người y tá tên Ri
Hai bà chị
Trận đánh tháng 3/75 Quân Khu I
Thu hát cho người
Sự nghiệp 4 chữ, lư tưởng 2 chữ
TĐ2/TQLC Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Trung Đoàn Tăng-Thiết Giáp 202
T́nh với Nghĩa
Xuân ở nơi nào?!
Tuổi 70, Chán mớ đời!
Họ nhà "Cu"
Con sáo bạc má và người tù
Quân khu IX ơi. Chào mi!
Chuyện về bức tượng TQLC
Tháng 3, kư ức về anh
Ngày ra trại
Một buỗi chiều xuân
Đêm xuân Đà Lạt
Nhánh mai vàng
Phục Hưng Tự