Những Ngộ Nhận về Chiến Tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ

Đỗ Văn Phúc

Có những sự thật không nên phải nói ra, v́ sẽ không làm vui ḷng rất nhiều người khác, nhất là thời gian đă qua quá lâu. Nhưng chẳng đặng đừng v́ không thể để cho những sự thật bị chôn vùi, xuyên tạc mà nạn nhân là những người lính VNCH từng chịu quá nhiều cay đắng, khổ nhọc trong chiến tranh cũng như sau đó. Họ đă đổ máu, hy sinh cuộc đời ḿnh cho tổ quốc và dân tộc; th́ nay không lư do ǵ để họ cứ bị những kẻ tự tôn và nặng óc kỳ thị tiếp tục xúc phạm.

Chúng tôi không rơ những người lính Mỹ truớc khi lên đường sang Việt Nam đă được dạy những ǵ về lịch sử, phong tục, ngôn ngữ Việt Nam, hay chỉ vài điều căn bản vừa đủ để tiếp xúc mà thôi. V́ thế, do sự thiếu hiểu biết về lịch sử Việt Nam, nhất là về chiến tranh Việt Nam, mà đă dẫn đến những ngộ nhận quá đáng trong quần chúng Hoa Kỳ, thể hiện qua phim ảnh, sách báo, các bài thuyết tŕnh, các câu đối thoại trên truyền thông xă hội (mà gần đây chúng tôi phải đương đầu). Đây là điều mà đại đa số người Mỹ - ngay cả những cựu quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam - đă hiểu sai. Theo họ:

_ Cuộc chiến Việt Nam là giữa nước Mỹ và Việt Nam (bỏ quên sự hiện diện và vai tṛ chính của Việt Nam Cộng Hoà và Quân Lực VNCH)

- Nếu có nơi nào nhắc đến Việt Nam Cộng Ḥa th́ đa số là vu khống, mạ lị VNCH nào là tham nhũng, vô tài; QLVNCH th́ hèn nhát, không chịu đánh nhau, bỏ chạy trước địch quân…

Trước hết, chúng ta phải xác định lại tính chất thật sự của cuộc chiến.

Cuộc chiến tranh Việt Nam là giữa miền Nam, Việt Nam Cộng Hoà theo chế độ dân chủ tự do, chống lại sự xâm lăng của miền Bắc, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà theo chế độ Cộng Sản; Nh́n rộng hơn trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh sau Thế Chiến thứ Hai; đó là cuộc chiến giữa thế giới tự do mà Hoa Kỳ đứng đầu chống lại sự bành trướng của Cộng Sản quốc tế do Liên Sô cầm đầu.

- Người Việt đă chiến đấu chống Cộng Sản từ khi Hồ Chí Minh và Mặt Trận Việt Minh lộ diện là Cộng Sản. Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm là người quốc gia chân chính. Ông chống chế độ thực dân của Pháp, khước từ hợp tác với Nhật và không chịu cộng sự với Hồ Chí Minh dù được ông Hồ mời tham gia.

- Từ ngày thành lập nền Cộng Hoà Việt Nam năm 1955, thế trận Quốc Cộng đă thành h́nh. Cố Tổng Thống Diệm đă không đồng ư chủ trương của Hoa Kỳ là dùng chiến tranh quy ước để chống lại cuộc chiến du kích của CS. Hoa Kỳ cố ép VNCH phải huấn luyện và tổ chức quân đội theo khuôn mẫu Quân đội nhà giàu của Mỹ. Tướng John O’Daniel, người cầm đầu Phái Bộ Viện Trợ và Cố Vấn Hoa Kỳ (MAAG) trắng trợn tuyên bố “Ai chi tiền, người đó chỉ huy” (Who pays, gives orders). Trong khi Cộng Sản tuyên truyền trong dân chúng về cuộc chiến tranh chống Mỹ, cố Tổng Thống Diệm không muốn Hoa Kỳ đưa quân chiến đấu vào VN v́ muốn bảo vệ chính nghĩa và nền độc lập của quân dân miền Nam.

Trong giai đoạn từ 1955 đến 1963, miền Nam phát triển vượt bực vừa về kinh tế xă hội, vừa về xây dựng dân chủ. Phía người Mỹ phê phán chính quyền Tổng Thống Diệm một cách chủ quan và phiến diện khi họ đem tiêu chuẩn của nước Mỹ là một quốc gia có một thể chế dân chủ ổn định nhất hoàn cầu và nền văn minh vật chất cao độ để so sánh với một nước có xă hội và nền chính trị cổ truyền, mới giành lại độc lập, và đang trong giai đoạn đầu tiên của sự xây dựng và phát triển.

Do đó, Hoa Kỳ đă nh́n cố Tổng Thống Diệm như một trở ngại cho chính sách của họ. Tổng Thống Kennedy đă thuê đám tướng tá phản phúc lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa và thảm sát anh em cố Tổng Thống Diệm. Biến cố 1 tháng 11, 1963 đă đưa miền Nam vào môt giai đoạn hỗn loạn nghiêm trọng, tạo cơ hội cho Cộng Quân phát triển ở nông thôn và gây rối ở thành thị. Việc này tạo ra duyên cớ để Hoa Kỳ đưa 500 ngàn quân chiến đấu vào miền Nam năm 1965. Vào tháng 4, 1964, phản ứng trước tuyên bố của Thượng Nghị Sĩ Wayne Morse, Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamara nói với báo chí rằng “Theo tôi, đây là một cuộc chiến rất quan trọng, và tôi rất sung sướng được gắn liền với nó và sẽ làm bất cứ điều ǵ để chiến thắng.” Rồi khi đến thăm vùng Phi Quân Sự ở Bến Hải, ông ta đă ngạo nghễ tuyên bố: “Chúng ta sẽ ở lại đây cho đến ngày chiến thắng.”

Sau bảy năm với 500 ngàn quân trang bị vũ khí tối tân, với một Không Lực và Hải Lực hùng hậu nhất thế giới, Hoa Kỳ thấy không thể thành công, nên đă phải rút quân. TT Nixon đề ra cái gọi là “Việt Nam Hoá Chiến Tranh” để trao lại trong trách cho Quân Lực VNCH. Họ gọi đó là một giải pháp mà sau đó họ gọi là “Hoà B́nh trong Danh Dự”. Thế là thế nào? Không thể thắng hay không muốn thắng? Bỏ cuộc, rút lui trong một cuộc chiến th́ c̣n danh dự nỗi ǵ?.

Từ năm 1972 đến 1975. Quân Lực VNCH đă phải nhận hành quân trong một lănh thổ mà trước đây có mặt thêm hàng chục sư đoàn, lữ đoàn của Mỹ. Một ví dụ: Sư Đoàn 5 Bộ Binh với quân số khoảng 10 ngàn binh sĩ, phải gánh một vùng hành quân trước đây là của chính họ cộng với gần hai sư đoàn Mỹ (Một phần Sư Đoàn 25 Hoa Kỳ, một Lữ Đoàn Không Kỵ, và SĐ 1 BB Hoa Kỳ mà quân số trang bị xem như gấp đội SĐ5BB của Việt Nam). Các đơn vị phải dàn mỏng ra trong vùng rừng rậm của ba tỉnh B́nh Dương, B́nh Long, và Phước Long.

Cần nhắc lại là trong giai đoạn trước 1968, QLVNCH chỉ được trang bị các vũ khí lỗi thời, thặng dư sót lại của Thế Chiến thứ Hai; trong khi Cộng Quân đă có vũ khí tối tân từ Nga sô và Trong Cộng. Súng trường Garant M1 làm sao so với tiểu liên AK-47 của Tiệp Khắc; Đại bác 155 ly chỉ bắn khoảng 15 cây số, trong khi tầm bắn của đại bác 130 li xa tới 30 cây số, súng cối 61 ly và 82 li của VC có thể xài đạn 60 li và 81 li của chúng ta). Rồi vào giai đoạn sau cùng từ 1972 đến 1975, quân viện bị cắt thê thảm. Cuối năm 1974 coi như binh sĩ VNCH không có đủ đạn các loại, phi cơ, xe cộ không đủ xăng dầu; trong khi Bắc Việt chuyển vào Nam hàng chục sư đoàn với sự tiếp tế vũ khí đạn được vô hạn từ Liên Sô và Trung Cộng. Hoa Kỳ đă bội ước, không can thiệp như trong các văn thư của Tổng Thống Nixon gửi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi ông Thiệu buộc ḷng chấp nhận kư Hoà Ước Paris!

Bây giờ, người Mỹ quay ra trút sự thất bại của họ lên đầu Việt Nam từ chính quyền đến quân đội! Người Mỹ, với tính tự tôn, coi các dân tộc khác là kém cỏi. Họ đă nói đến người Việt Nam là bọn “little bastards,” nhục mạ với tiếng lóng “bọn gooks,””bọn khó dạy!”

Những bằng chứng cho thấy họ đă bỏ lơ các đóng góp tích cực của quân sĩ VNCH như:

Khi viết hay làm phim về trận Khe Sanh, họ không hề nhắc đến sự có mặt của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH mà đă cùng họ chiến đấu suốt thời gian bị vây hăm, tấn công.

Khi viết hay làm phim về trận tái chiếm cố đô Huế, họ chỉ phô trương h́nh ảnh người lính TQLC Hoa Kỳ mà không hề có một h́nh nào về những người lính TQLC, Bộ Binh VNCH.

Khi viết và làm phim The Hamburger Hill, họ đă tiếm đoạt công trận của QLVNCH khi vinh danh tiểu đoàn 3/187 thuộc Sư Đoàn 101 Nhảy Dù Mỹ đă chiếm ngọn đồi đầy máu và thịt băm. Nhưng tài liệu của Bộ Tự Lệnh Mỹ tại Việt Nam (bản báo cáo ngày 22 tháng 5, 1969 của Đại Tá Wilson C. Harper), đă xác nhận đơn vị đầu tiên đặt chân lên đỉnh đồi Đồng Lộc ở Động Ấp Bia - tức đồi 937 trên bản đồ quân sự - là Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 BB Việt Nam.

Những trận đánh long trời lỡ đất của VNCH đă bị người Mỹ làm ngơ không hề nhắc tới. Ví dụ: Trận đại thắng Tết Mậu Thân năm 1968 th́ bị họ bóp méo là thất bại v́ cho rằng phía VNCH đă không tiên liệu cuộc tổng tiến công của VC, Trận tử thủ An Lộc của Bộ Binh, Nhảy Dù, Biệt Động Quân (một chọi sáu) trong hai tháng từ tháng 4 đến cuối tháng 5, 1972; Trận tử thủ Tống Lê Chân của Tiểu Đoàn 92 BĐQ (một chọi chín) trong hơn một năm rưỡi, Trận tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị của TQLC Việt Nam năm 1972, Trận Sa Huỳnh của Trung Đoàn 6 BB vân vân.

Người quân nhân Mỹ đến Việt Nam theo tiêu chuẩn mỗi ṿng (tour) là một năm, xong sẽ về lại Mỹ. Sau đó, có thể t́nh nguyện thêm một vài ṿng khác. Trong một năm ở VN, phải qua giai đoạn processing mất chừng 1 tuần, họ cũng hưởng 15 ngày phép ở các trung tâm du lịch. Chỉ có 10 phần trăm tổng số quân nhân Mỹ ở Việt Nam là ra chiến trường. Như thế, trong số 2.7 triệu quân nhân Mỹ tham gia toàn cuộc chiến, th́ có 270 ngàn là lính tác chiến. Ở mức quân số cao nhất là 363 ngàn binh sĩ Mỹ trong năm 1969 , chỉ có 36 ngàn là ở chiến trường.

Thử so với một triệu quân VNCH dưới cờ, th́ chỉ có chừng khoảng 150 ngàn quân tác chiến (thêm vài trăm ngàn nếu tính luôn Địa Phương Quân và Nghĩa Quân). Thanh niên Việt Nam từ khi vào lính ở độ tuổi 18 (t́nh nguyện hay quân dịch) th́ coi như không thấy ngày về. Quân nhân các đơn vị tác chiến chỉ về khi tử trận hay bị thương nặng. Họ chiến đấu triền miên trong hoàn cảnh ăn uống kham khổ và nỗi khó khăn về kinh tế gia đ́nh; cầm cự trong 20 năm chiến tranh th́ phải nói là quá phi thường, dũng cảm mà chắc người lính Hoa Kỳ hay các đồng minh khác sẽ không thể nào cam chịu nổi.

Chúng tôi phải lên tiếng để lấy lại danh dự cho người lính VNCH, dù đôi khi phải nói thẳng những điều có thể mất ḷng các bạn Mỹ có sự hiểu biết trung thực. Như như Chúa Giê Su từng nói khi một đám đông đ̣i ném đá chết một phụ nữ phạm trọng tội ngoại t́nh: “Ai là người chưa hề phạm tội th́ hăy ném đá người đàn bà này.” (Let him who is without sin among you be the first to cast a stone at her. John 8.7). Chúng tôi cũng muốn nhắn tới các anh Mỹ tự tôn, đầy óc kỳ thị rằng: “Nếu anh chưa hề ra nếm mùi chiến trường, anh hăy câm mồm lại v́ anh không đủ tư cách để phê phán chúng tôi.”

Đỗ Văn Phúc