Trang thơ Nguyễn Minh Châu 
					Thơ - Tuấn TT
					
			Chùm thơ Đông Hương
					Thơ - Huy Văn
					Một ṿng quay
					Dư âm ĐH 2018
					Khấn nguyện
					Nỗi buồn người 
					ở lại
					Mùa Thánh
					Đông về...
					Gọi tên đồng đội
					Nhớ mày
					43 năm trôi qua, 43 
			năm ṃn mỏi đợi chờ 
					Ước mơ... Phá 
					Tam Giang
					Huynh Đệ chi binh
					Thu dĩ văng
					Quê hương ơi…?
					T́m mày …ḿnh nằm chung
					Kư ức Quận Tư
					Về đâu 
					nhỉ…khi tôi chết?
					Tôi sẽ chết
					Một ḿnh trên 
					căn gác
					Nỗi buồn nín câm
					Chùm khế ngọt
					Nhiều đêm trăn 
					trở
					Hành trang bỏ dở
					Chiều thu
					Hoài cổ
					Màu cờ
					Kỷ niệm 64 năm 
					sinh nhật BC/TQLC
					Cho người yêu 
					dấu
					Cổ Thành ơi !
					Tiệc khao quân
					Xin đừng hỏi tôi
					Gửi hồn theo gió
					Chuyện lạ nước nhà
					Anh hùng 
			tử, khí hùng nào tử
					Bên nầy bờ Đại 
			Dương
					Thu chờ đợi
					Cổ lai chinh chiến
					Nếu có thể
					Chinh phụ
					Tiễn bạn
					Thu buồn
					Hoài cảm "Lính xa 
			nhà"
					Mộng buồn
					Hoài niệm
					Năm mốt năm
					Nhớ hè xưa
					Tôi phải là tôi
					Mùa hoa phượng
					Gọi thầm
					Thầm lặng
					Ngàn năm măi 
			t́nh chung
					
			Phím rối
					Đứng vùng lên
					Nỗi buồn vong quốc
					Nỗi ưu tư
					Mộng tưởng
					
			Trời mờ... mưa đêm
					Mẹ
					
			Những giọt lệ cho những tấm thẻ bài
					Mày hỏi tao?
					Nhớ thằng bạn cũ
					Tấm h́nh rách
					Kư Ức khó quên
					Những dấu xuân xưa
					Câu hỏi đầu xuân
					Thắp lại ánh xuân
					Chiến hữu của 
					tôi
					Kư ức ngày găy 
					súng
					Nhớ ngày cũ
					Trả tôi về
					Xuân khuất đoá 
			măn khai
					Khóc mùa xuân
					Mừng Mậu Tuất, nhớ Mậu 
			Thân
					Mưa buồn
					Mừng Xuân
					Xuân trong 
					tiềm thức
					Nỗi đau mẹ Việt Nam
					Nhạn lạc bầy
					Tuổi trẻ Việt Nam
					Xuân nhớ đến Mẹ
					Người Lính Già (Đại 
			Bàng Tango)
					Mùa Giáng Sinh xưa
					Nhớ về chốn cũ
					Nhớ nhà (Nhớ ngày ấy)
					Saigon của tôi
					T́nh sen
					Mănh Hổ “Tây Đô”
					Kư Ức khó quên 
			(Ngày tàn cuộc chiến)
					Người lính già (Cọp 
					nhớ rừng)
					Khi tôi chết 
					(Tâm sự người lính già)
					T́m phương giác
					Gục đầu xuống
					Đêm trăng nhớ 
					bạn
					Người lính và 
					nỗi nhớ
					Hương xưa của 
					tôi
					Người lính VNCH
					
			Huyền thoại mưa Sài G̣n
					Vịt Tiềm
					Thắp nhang cho 
					bạn
					Tấm thẻ bài
					Thăng trầm
					Hoa nước mắt
					Khi tôi đi
					Độc ẩm
					Nh́n đất mẹ
					
			Nợ núi sông đă trả, chỉ c̣n nợ em
					Tận cùng nỗi nhớ
					Một câu hỏi
					Một thoáng suy 
					tư
					Mày hỏi tao
					Bạc màu áo trận
					Thơ - Đông Hương 
					1 - 2 -
					3
					Đồng đội
					Quận Tư, xóm nhỏ
					Người lính già (Cọp 
			nhớ rừng)
					Cảm xúc Tháng 
					Tư Đen
					Nhớ Bạn tuổi thơ
					Tháng Tư 
			hoài vọng
					Nhớ Phá Tam 
					Giang
					Khi cha già 
					cha sẽ về đâu??
					Biển ấy, mùa này
					Tháng Ba rồi ....
					Một ngày và 
					một đời TQLC
					
					Buồn như một sớm trời không nắng
					Huế xa 
					rồi - Mai mốt về em nhé
					Mê thư lính
					T́nh khúc 
					cho một người
					
					Nỗi nhớ buồn hiu
					
					D́u nhau đi cho hết....
					Chùm thơ Đông 
					Hương
					Ta về
					Ưu tư vận nước
					Tưởng niệm 40 năm
					Đêm ngủ tôi mơ
					Tháng Tư 
					lại đến nữa rồi
					Cái chết của một 
			tượng đá
					Xuân Buồn
					
					Anh sẽ đưa em về
					Bức dư đồ
					Tâm sự lính Mũ 
					Xanh
					Ngồi xuống đây
					Hăy nhặt ǵum 
					cha
					Xin giữ
					Mây tháng Tư
					Xuân xứ người
					Lời cho này anh
					Giấc mơ tương 
					lai
					Cô giáo Tịnh Như
					Nhớ Cao Xuân Huy
					Bông hồng Hậu 
					Nghĩa
					Anh đi... 
					Chiều trên quê nội
			Nội tướng của t́nh 
			thương
			30 tháng 4 - Sống và Chết
			Với MX Sóng Thần một 
			thuở... 
			Tháng Tư đen
			Tao nợ mầy...
			Pho tượng người 
			lính...
			Đôi nạng gỗ...
			Tôi nợ anh...
			Chùm thơ Áo Trắng 
			
			Nhớ một chiều Xuân
			Thơ của Trần Khoa Danh
			Tâm sự người Thương Binh
			Nhà xưa đă khép
			
			 
MX Lê Quang Liễn
Lời Nói Đầu:
Tại sao tôi viết bài này với cái tựa đề “kỳ cục” như thế, chỉ khác nhau một cái dấu.
Tại vì tôi có những cấp chỉ huy đáng kính, trong đó có Niên Trưởng Nguyễn Xuân Phúc và Niên Trưởng Phạm Văn Sắt là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Đức tính đáng kính nhất của 2 NT là trung thực và tôn trọng đơn vị bạn. Đã hơn một lần NT Phúc “chỉnh” tôi về việc báo cáo không đầy đủ về hoạt động của đơn vị Địa Phương Quân trong vùng.
Tôi viết về Anh Phúc và Anh Sắt gửi đến một người bạn đồng khóa “đáng kinh” của hai anh để lấy đó làm gương, nhất là đức tính khiêm nhường của Anh Sắt mà ông bớt tự cao tự đại, bớt “nổ” đi. Là cấp chỉ huy, coi mình là thông minh về kiến thức sử dụng B52 nên ông đã cho B52 nổ trên đầu đơn vị bạn. Vị đó là Redhat Lê Minh Ngọc (LMN).
Trong một email viết về trận tái 
			chiếm Cổ Thành, Redhat đã viết như sau:
			***
			From: LMN. <redhat@yahoo.com.
			.....Như Trương đăng Sỹ mô tả lại, TĐ5ND đă tấn lên đến mặt Cổ 
			Thành, th́ được lệnh rút ra, cho B52 làm việc. TĐ5ND chỉnh bị hàng 
			ngũ, để xong màn đánh bom, là lại húc nốt cho xong. Nhưng có một bất 
			ngờ chưa bao giờ xảy ra: Trong khi đánh bom, ND được lệnh rút ra án 
			ngữ về mặt tây và bắc, để cho TQLC .. vào thay thế. Và TĐT TĐ6/TQLC 
			đi húc cú này, lại cũng là một anh bạn K16 khác: Hiệp sĩ Mù Sói Biển 
			Ng Văn Cảnh .. Thế là TQLC chiếm cổ thành Đinh công Tráng sau cùng”
			
			(Hết trích).
			***
			Còn Trương Đăng Sỹ, ĐĐT51/TĐ5ND lại viết về trận đánh đó như sau:
			***
			“...Khi màn khói vừa tan, địch quân bắt đầu trả đũa dữ dội. Nặng 
			nhất là hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân cột cờ Tiểu khu, địch c̣n 
			ngoan cố trong hầm hố bắn trả rất mạnh. Tôi tung thêm vào thành một 
			trung đội, bung rộng đội h́nh vừa đào hầm hố, vừa chống cự.
			Phi cơ quan sát L19 bao vùng báo tôi biết địch từ phía Bắc sông 
			Thạch Hăn tràn qua như kiến! Tôi một mặt xin pháo binh yểm trợ, một 
			mặt xin tiếp phi tuần oanh kích...”
			(Hết trích)
			***.
			Vì “đức tính” tự cao và thích tiếng nổ của B52 nên cả hai 
			vị trên đều nói không đúng với thực tế chiến trường của cùng một 
			sự kiện lúc bấy giờ - ngày 26 tháng 7 năm 1972.
(Xin đọc “Cổ Thành Quảng Trị...Trị Thiên Vùng Dậy” của BCD Lê Đắc Lực trong Sóng Thần 2018 hoặc “Tàn Cơn Binh Lửa” trang 137-138 của BCD Lê Đắc Lực).
Điều tối kỵ khi viết về hồi ký chiến trường là không “lịch sự” với đơn vị bạn, viết không đúng. Hai ông Ngọc-Sỹ chỉ v́ cái “Tôi” quá lớn, mà viết ra những điều không sát với thực tế, đã không cần biết gì đến vì sao mà 3658 quân nhân TQLC đã hy sinh và nhiều ngàn TQLC bị thương cho chiến thắng Thị Xă & Cổ Thành Quảng Trị ngày 15 tháng 9 năm 1972.
Chúng ta có thể “xạo” với người 
			sống, nhưng không thể nói dối với người chết, các anh linh 
			biết hết nhưng không thèm nói, v́ anh linh các tử sĩ và máu 
			xương của đồng đội, tôi là người có mặt tại chiến trận từ 
			khởi sự cho đến kết thúc đành phải xin phép hai NT 
			Phúc-Sắt mà trả lời NT “rét-hét” LMN như sau:
			***
			... Là cấp chỉ huy tác chiến, có lẽ NT phải biết tầm an toàn cho 
			đơn vị bạn. Trước năm 1968 khi sử dụng B52 phải 3km, đến lúc người 
			Mỹ biết VC lợi dụng điểm đó để di chuyển vào trong tầm an toàn 
			(trong trận tiền đồn Cồn Tiên ở vùng DMZ) th́ HK phải thay đổi vùng 
			an toàn cho friendly forces là 1.4 km. Mỗi thước đất, mỗi khu vườn ở 
			QT lúc bấy giờ đẩm máu các anh em ND, TQLC,... th́ làm ǵ có vụ ND 
			de lui để B52 làm cỏ VC? Vả lại phía Bắc vùng CT, TQLC cũng đă đánh 
			chiếm trục tiếp tế của CSBV trên tuyến đường 560 vào Quảng Trị. 
			Trong cái khung khép kín đó, rủi ro cho quân ta rất lớn nếu có B52 
			yểm trợ.” 
Tôi rất kính trọng các niên trưởng 
			và các cấp chỉ huy cùng tất cả anh hùng Mũ Đỏ, nhưng với 
			“NT Đáng Kinh”, tôi không biết phải nói gì...Trong Binh Chủng 
			TQLC, tôi có tất cả các cấp chỉ huy, các niên trưởng đáng 
			kính, đồng đội và đàn em đáng phục, nhưng trong phạm vi tìm 
			một tấm gương sáng cho ông LMN, tôi chỉ xin nói đến 2 NT đồng 
			khóa với LMN, đó là: NT Nguyễn Xuân Phúc và NT Phạm Văn 
			Sắt:
			
			
Cuối năm 1971, sau khóa học quân sự tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi được thuyên chuyển về TĐ2/TQLC. Đến phi trường Đông Hà buổi chiều mùa Đông nhiều mây xám vào gần cuối năm, trời mưa và thật lạnh với cái rét thấu xương của miền Trung. Tiểu đoàn đang đóng quân gần Đông Hà nên NT Nguyễn Xuân Phúc cho xe đón tôi, gặp tôi ông cười vui vẻ nói:
-Cuối năm 69 ông chê TĐ2 v́ không chịu làm tham mưu, nên lần này tôi xin ông về chỉ để đánh nhau thôi, tôi giao Đại Đội 4 cho ông đó.
-Thưa Trung Tá tôi rất mừng được về đây, dầu sao Trung Tá không giận thằng em. Vả lại, lúc đó tôi thấy bó tay bó chân khi ở BCH/TĐ. Tánh tôi ưa hoạt động độc lập. Xin cám ơn Trung Tá.
Lời chào mừng có ư nhắc lại thời kỳ năm 1969, sau khi tôi măn khóa Basic School tại Quantico, Hoa Kỳ tức Khóa học Căn Bản Sĩ Quan TQLC/HK và thuyên chuyển về “Khối Bổ Sung” để chuẩn bị cho TĐ8/TQLC tân lập. Thời gian sau đó, tôi được chuyển về TĐ2/TQLC trong chức vụ Sĩ Quan HQ&HL, nhận thấy các ĐĐT là các NT/K19 của tôi cả nên tôi thấy không phù hợp trong nhiệm vụ và xin NT cho tôi ra đại đội tác chiến, nhưng NT Phúc nói chờ vài tháng v́ đang kẹt nhiều sĩ quan thâm niên mà Tiểu Đoàn thì chỉ có 4 đại dội nên sau đó tôi được về lại “Khối Bổ Sung” v́ nhu cầu cán bộ cho TĐ8/TQLC .
NT Nguyễn Xuân Phúc rất nổi tiếng v́ là Á Khoa K16 TVBQGVN. Trong thời gian thụ huấn NT là Tiểu Đoàn Trưởng trong hệ thống tự chỉ huy của SVSQ, được đồng khóa và các khóa đàn em kính mến, được đàn em tặng biệt danh “Robert Lửa” . Trong BC/TQLC, NT từng lần lượt giữ các chức vụ từ cấp Trung Đội Trưởng cho đến Tiểu Đoàn Trưởng, và sau cùng là Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369/TQLC.
Điểm nổi bật của NT là trung thực, thẳng thắn, hết sức tôn trọng các đơn vị bạn khi giao tiếp. Sống với đồng đội, thuộc cấp thì NT thật b́nh dị như anh em, đi hành quân cũng nằm đất trên tấm poncho hoặc trên chiếc vơng như mọi người. NT Phúc nghĩ nhiều về sự an nguy, và quyền lợi của thuộc cấp. Đặc biệt NT rất nghiêm nghị, trầm tư lúc hữu sự, đôi mắt to, sáng quắc, long lanh khác hẳn những lúc sinh hoạt b́nh thường. Điều này cũng làm cho các vị cố vấn TQLC/HK đi cùng phải im lặng và chờ lịnh từ NT.
Một kỷ niệm khó quên với người NT đáng kính là trong một lần tôi về phép Sài G̣n vào năm 1974, thời gian này NT đang theo học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu tại Long B́nh. NT hẹn tôi đón ông tại ngă tư Thủ Đức và Xa Lộ Biên Ḥa lúc 6 giờ chiều. Th́ ra NT quá giang xe của bạn bè từ Sài G̣n- Long B́nh mỗi ngày để đi học. NT có thời gian hơn 6 năm giữ những chức vụ chỉ huy, mà lúc đi đáo nhậm đơn vị mới chỉ chạy cái xe Lambretta cũ mèm. NT có cuộc sống rất thanh bạch. Vị Tư Lệnh nói:
-Phúc nó nghèo, vì lúc nào nó cũng sợ lính bị đói.
Là TĐT/TĐ2 nhưng NT đă chứng tỏ khả năng chỉ huy cao hơn trong cuộc HQ Lam Sơn 719 trên chiến trường Hạ Lào năm 1971, trong t́nh thế bị bao vây và chia cắt, suốt hơn một tháng tham dự, vị Lữ Đoàn Trưởng 147 bị suy sụp sức khỏe, trong vai trò Tiểu Đoàn Trưởng bảo vệ Lữ Đoàn, NT đă không ngần ngại hay chờ lệnh mà nắm ngay quyền điều động các đơn vị, xin hỏa lực yểm trợ của Không Quân Hoa Kỳ qua hệ thống Cố Vấn TQLC tại Khe Sanh. Trên hệ thống truyền tin của LĐ/147/TQLC, tiếng nói thường trực 24/24 của NT đă đem lại sự an tâm cho tất cả đơn vị thống thuộc .
NT đã điều động các đơn vị đến điểm tập trung an toàn để được trực thăng bốc về Khe Sanh, TĐ2/TQLC là thành phần bao chót của Lữ Đoàn 147.
“Gian Nan Thử Sức”, trước tình thế nguy ngập khó khăn mới biết ai là “Cây Tùng Trước Bão”. NT Nguyễn Xuân Phúc là một người như thế.
			
Sau hơn 4 tháng hành quân tăng phái cho Quân Đoàn I, TĐ2 trở về hậu cứ để bổ sung quân số và tái trang bị chưa được 2 tuần lễ, chưa có ngày phép nghỉ ngơi thì ngày 3 Tháng 4 năm 1972, TĐ2/TQLC đã phải trở lại chiến trường Quảng Trị khi CSBV bắt đầu chiến dịch Nguyễn Huệ. Vùng hành quân trách nhiệm của TĐ2/TQLC phía Tây – Nam Thị Xă Quảng Trị. Trong gần suốt Tháng 4 năm 1972, Đại Đội 4 của tôi trấn thủ và chịu đựng pháo địch ngày đêm tại căn cứ Barbara, vị trí xa nhất gần 10km về hướng Tây của Quốc Lộ 1, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2 cách căn cứ Barbara khoảng 8km, các đại đội tích cực t́m kiếm và tiêu diệt các toán trinh sát CSBV đang bám sát quân ta hoặc phát giác các ổ pḥng không của địch trên các hốc núi, triền đồi để phi cơ oanh kích chúng. Trong tuần lễ thứ hai của Tháng 4, Trung Đội Viễn Thám do Th/Úy Nguyễn Văn Đợt chỉ huy sử dụng con đường nối liền từ QL1 – Barbara (có từ thời QĐ Hoa Kỳ) để hoán đổi cho Trung Đội Viễn Thám bạn tại Barbara, đă bị CSBV phục kích gây thương vong, một số bị bắt .
Áp lực địch ngày càng gia tăng nhất là hướng Bắc, Tây- Bắc của Sư Đoàn 3 và các đơn vị tăng phái. Trước t́nh h́nh rất căn thẳng của khu vực hành quân NT Phúc đă h́nh dung sẽ có lúc phải rút “đứa con” (Đại Đội 4) xa nhất về , NT đă ra lịnh cho Đại Đội 1 là đơn vị gần tôi nhất, phải âm thầm phát rừng mở một con đường mới, xuyên rừng và cách con đường cũ khá xa. Về phần tôi, cũng chỉ phải phát rừng gần 200m để gặp Đại Đội 1. Trong ṿng 5 ngày hai đại đội đă thông được con đường, mà công lao của Đại Đội 1 là chính. Từ đây, mọi tiếp tế lương thực, bổ sung... cho đơn vị tôi đều xử dụng con đường kín đáo này một cách an toàn.
Với tầm nh́n xa và sự nhạy bén t́nh h́nh của cấp chỉ huy kinh nghiệm mà NT đă đưa ra những kế hoạch đúng lúc, đúng chỗ, bảo đảm an toàn cho Đại Đội 1 và Đại Đội 4 về sinh mạng và quân dụng khi có lịnh rút TĐ2/TQLC về thiết lập tuyến pḥng thủ Mỹ Chánh vào đầu tháng 5 năm 1972.
Tại pḥng tuyến Mỹ Chánh vào đầu tháng 5/1972, trước áp lực của nhiều sư đoàn CSBV với kế hoạch tiến về Thành Phố Huế, Đại Tá Phạm Văn Chung, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369/TQLC- đă tín nhiệm, giao phó, và xác nhận NT Phúc có quyền hạn như một Lữ Đoàn Phó để phối hợp chỉ huy các TĐ5 và TĐ9/TQLC khi t́nh thế diễn biến phức tạp và bất ngờ.
Bản tính đạo đức, liêm khiết, quan tâm đến thuộc cấp, xông xáo trên chiến trường với những tính toán có tính chiến thuật ... Thật sự trong thâm tâm tôi rất an ḷng khi thi hành mọi nhiệm vụ mà NT Phúc giao phó với tất cả ḷng nhiệt thành của tuổi trẻ v́ rất tin tưởng vào những quân lịnh có tính toán sắc bén của NT.
Ngoài chiến trường, khả năng chỉ huy và tài lãnh đạo của cấp chỉ huy là quyết định sống chết cho thuộc cấp, NT Nguyễn Xuân Phúc đã hoàn thành nhiệm vụ đó một cách xuất sắc khiến thượng cấp, đồng đội và thuộc cấp đều mến phục.
Mạng sống trời ban cho thật đáng quý, nhưng càng quý hơn khi một cấp chỉ huy biết chia xẻ mạng sống với thuộc cấp vào giờ phút tử sinh.
Sáng ngày 29/3/1975, chính xác là từ 7-10 giờ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369/TQLC Nguyễn Xuân Phúc cùng Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng ngồi bên những máy truyền tin ngay bờ biển Non Nước mà không quan tâm tới việc những quân nhân khác đang lên 2 chiếc tàu HQ đậu gần đó, vì các Niên Trưởng còn liên lạc và chờ đứa con, TĐ9/TQLC của Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, đang từ xa rút về. Nhưng buồn thay, VC đã pháo kích trên bãi biển và tàu HQ rồi 2 NT Phúc và Tùng đã biến mất trong khói lửa mịt mù! TĐ9/TQLC mất liên lạc với cấp chỉ huy đành tử thủ và quyết tử với địch quân đông gấp nhiều lần.
Khi hay tin NT Nguyễn Xuân Phúc đă biến mất, nhưng tôi cứ thầm mong có một phép lạ nào đó để NT sẽ trở về . NT thật xứng đáng một cấp chỉ huy tài ba, một đồng đội, một người anh ĐÁNG KÍNH.
Thế còn vị “đáng kinh” kia, vào 
			giờ phút cuôi cùng ông ở đâu, làm gì mà ngày nay ở hải 
			ngoại ông “nổ” thế!
			
			
 
			Trong số những Khóa 16/VB t́nh nguyện về TQLC, Niên Trưởng Phạm 
			Văn Sắt là một trong những người nổi bật của khóa, NT Sắt bị thương 
			đến 5 lần: 1 lần trong chức vụ đại đội trưởng, và 4 lần khi là tiểu 
			đoàn phó TĐ3/TQLC. Trên người NT những vết thương chiến tranh ghi 
			dấu khắp nơi, đặc biệt vùng bụng với những vết sẹo dài, sần sùi. NT 
			là người được giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng trước tiên, đồng thời 
			với NT Nguyễn Xuân Phúc, cho nên, cuộc đời binh nghiệp của NT cũng 
			rất sôi động khắp 4 vùng chiến thuật, góp nhiều chiến công cho 
			Binh Chủng. Nhưng điều đáng nói, đáng làm gương cho... là 
			nghệ thuật lãnh đạo và chỉ huy của NT trong quân ngũ cũng như 
			bên hành chánh. 
Lần đầu tiên khi tôi tŕnh diện NT Phạm Văn Sắt tại TĐ8/TQLC tân lập, tôi có cảm giác vừa an tâm và kính nể v́ NT đón tiếp tôi rất ân cần, dặn ḍ rất chi tiết của một cấp chỉ huy quan tâm đến thuộc cấp và đơn vị.
Tại doanh trại, NT thường bất ngờ xem xét nơi ăn chỗ ở, đặc biệt bếp ăn của binh sĩ, khuyến khích các đại đội tổ chức các hoạt động thể thao, thể dục nhằm tăng cường thể lực và tạo không khí vui tươi trong đơn vị.
Trong thời gian Tiểu Đoàn 8 hành quân ở Nông Sơn, NT ưu tiên cấp phép cho các quân nhân quê quán quanh vùng Quảng Nam, Thừa Thiên. Đây là một yếu tố tâm lý chỉ những người biết lãnh đạo mới nhìn ra, NT tự tin vào thuộc cấp không sợ anh em đảo ngũ mà chính thuộc cấp đã tin tưởng hơn nữa vào cấp chỉ huy.
Sau mỗi lần hành quân về lại hậu cứ, thường đoàn xe đến cổng trại vào xế chiều hoặc rất khuya. Theo thông lệ, các đại đội đều viết sẵn giấy phép để cấp cho anh em quanh vùng Sài G̣n – Gia Định tạm về thăm gia đ́nh ngay sau những ngày mong đợi. Những ngày sau đó, tùy tình hình nhiệm vụ trong tương lai và biết được ý định của Bộ Tư Lệnh, Tiểu Đoàn Trưởng Phạm Văn Sắt cấp 5 ngày phép đặc biệt cho tất cả các quân nhân. Trong không khí vui mừng, các quân nhân lại được xe GMC của tiểu đoàn chở ra đến chợ Thủ Đức và ngược lại, tiết kiệm thời gian và túi tiền cho anh em hơn cả tiếng đồng hồ thay vì phải đi xe Lam 3 bánh. NT là người cuối cùng rời doanh trại, sau khi đă đi kiểm tra pḥng ngủ của các đại đội, để yên tâm rằng tất cả quân nhân đă rời hậu cứ.
Nghe có vẻ “lý tưởng hóa” cấp 
			chỉ huy, nhưng đây là sự thật đã được tác giả Giang Văn 
			Nhân, một sĩ quan kỳ cựu của TĐ3/TQLC, ghi lại trong tác 
			phẩm “CHẶNG ĐƯỜNG NỐI TIẾP”, tôi xin trích đoạn như sau (*):
			***
			-Thiếu Tá Sắt đi lướt qua phía sau các đại đội, Ông nhìn 
			và lắng nghe tâm sự vụn vắt và ước muốn trong mấy ngày ở 
			hậu cứ của các anh em binh binh sĩ tỉ tê khi đang lau chùi 
			vũ khí...hiểu được những ước mong thầm kín của anh em binh 
			sĩ sau mỗi lần hành quân về, khi đi ngang qua tấm bảng “CẤM 
			TRẠI”, Ông đứng lại, nhìn tấm bảng hồi lâu, rồi Thiếu Tá 
			Sắt ra lệnh cho người Hạ Sĩ Quan trực: “Nhờ Trung Sỉ cất 
			tấm bảng “Cấm Trại” dùm tôi. Sau đó Ông cho lệnh tập họp 
			các đại đội và nói:
-Tiểu Đoàn sẽ xả trại và cấp 5 ngày phép đặc biệt cho mọi người. Tôi muốn 5 ngày là 5 ngày, anh em phải về trình diện cho đầy đủ...
Niềm vui bất ngờ, tất cả la to như muốn vỡ bầu không khí... doanh trại dần dần thưa thớt, Th/Tá Sắt đi vòng quanh khu nhà ở của binh sĩ để kiểm soát, nghe có tiếng chuyện trò văng vẳng, ông bước vào, 4 người lình vội đứng nghiêm chào, Ông thắc mắc hỏi:
-Các em đã nhận giấy phép chưa?
-Thưa Tbiếu Tá chúng em đã nhận rồi.
-Nếu có rồi thì các em rời khỏi đây ngay..
-Quê chúng em ở xa, không có tiền nên ở lại trại có cơm ăn chỗ ngủ.
-Các em đi theo tôi...
Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng dẫn 4 người lính xuống Ban Quân Lương và chỉ thị cho nơi đây làm giấy ứng tiền lương trước cho 4 anh em này và cả những ai cần tiển để về thăm gia đình ở xa...
Thiếu Tá Phạm Văn Sắt đã mang 
			niềm vui bất ngờ cho TĐ3/TQLC và đây là chuyện hiếm có ở 
			cấp tiểu đoàn trong Binh Chủng TQLC.
			***.
			(*) Đây chỉ là một trích đoạn trong “Niềm Vui Bất Ngờ” của 
			tác giả Giang Văn Nhân nên tôi không thể diễn tả hết niềm vui 
			sướng của người lính được đi phép sau mỗi lần hành quân 
			trở về, dù đó là quyền lợi của người lính, nhưng vì lý 
			do hành quân nên “quân bị hành” thường bị cấp trên quên những 
			ngày phép quý giá đó.
Kỳ diệu thay, đại đa số anh em trong khu vực Biệt Khu Thủ Đô và các tỉnh lân cận đều về đúng phép, một số nhỏ ở xa như miền Trung trễ vài ngày v́ phương tiện vận chuyển đều được thông cảm.
V́ bị thương nặng, cần dưỡng thương lâu dài, năm 1968, NT Sắt được thượng cấp đề bạt chức vụ Quận Trưởng Quận Thủ Đức. Thời gian giữ chức vụ hành chánh này NT cũng được dân và quân trong quận truyền tai nhau về nhiều giai thoại như sau:
-Ông Quận không cho bà xă quá giang xe Jeep của quận.
-Nghiệp đoàn xe Lambretta 3 bánh Thủ Đức được ông Quận nâng đỡ bằng cách giảm thuế. Nhớ ơn và kính phục họ mang quà đến mà ông Quận không nhận.
NT đă có lần tâm sự với tôi một cách chân t́nh và cởi mở:
-Anh về Quận Thủ Đức gần Sài G̣n mà có xin ai đâu, biết rằng trong phạm vi Quận có nhiều cơ sở kỹ nghệ, với máu nhà binh trong người nên anh cho lực lượng quân sự địa phương tăng cường pḥng thủ, canh gát cẩn mật các cơ sở đó. V́ nghĩ rằng: ông Quận là TQLC, nếu để VC phá hoại các cơ sở kinh tế huyết mạch này th́ mất thể diện TQLC. Các ông giám đốc cám ơn công việc của anh, lại đem quà biếu. Anh phải giải thích đó là việc phải làm của quận và anh từ chối.
Tôi nghĩ cũng v́ các việc làm phải, đạo nghĩa, thuận ḷng dân nên sau khi đi tù VC về, NT và gia đ́nh vẫn sinh sống b́nh an trong khu vực Thủ Đức.
Một thời gian sau ngày ngưng bắn 28 tháng 1 năm 1973, SĐ/TQLC có kế hoạch thay đổi các đơn vị trưởng. Khi được tham khảo về việc NT sẽ ra nắm lại chức vụ tiểu đoàn trưởng, NT đă khéo léo từ chối với lư do:
-Xin ưu tiên cho anh em trẻ v́ họ rất có công trong thời gian qua.
Tấm ḷng của NT thật bao dung, thông cảm những ước mong trong binh nghiệp của tầng lớp trẻ đă có nhiều hy sinh, đóng góp công trận lớn trong những năm chiến trường thật khốc liệt 1971-1972.
Trong thời gian đi tù ngoài Bắc, MX Nguyễn Cao Nghiêm K20 lại cho tôi biết, NT Sắt hay giành gánh phần lao động nặng thay cho đàn em như: khiêng cây th́ khi nào NT cũng chịu phần gốc nặng hơn và buộc Nghiêm phải vác đầu ngọn v́ nhẹ hơn...
NT xử sự với thuộc cấp cả quân lẫn dân như một người anh, một công bộc rất chí t́nh và tận tụy.
Thay Lời Kết.
			Các NT là h́nh ảnh của lớp sĩ quan trẻ được đào tạo sau Hiệp Định 
			Genève 1954: có học thức, chiến đấu có lư tưởng, trưởng thành trong 
			chiến trận, do được hấp thụ tinh hoa của nền giáo dục học đường và 
			đào tạo quân sự của Việt Nam Cộng Ḥa. 
Những kỷ niệm của bản thân, hoặc được bạn bè kể lại trên được ghi chép rất chân thật, từ đáy ḷng, không có màu mè thêm bớt về NT Nguyễn Xuân Phúc và NT Phạm Văn Sắt. Cho nên, tôi cảm thấy vô cùng may mắn được phục vụ dưới quyền của hai cấp chỉ huy với đầy đủ tài lănh đạo chỉ huy, liêm khiết, nhạy bén về chiến thuật, và là những tấm gương sáng cho quân nhân dưới quyền. Các Anh sẽ là những vị chỉ huy cao cấp và lãnh đạo lý tưởng trong tương lai, nhưng rất tiếc...!
Những kỷ niệm và những bài học từ các Anh làm cho ḷng tôi ấm lại và hănh diện mỗi khi nghĩ và kể lại cho bạn bè trong và ngoài binh chủng về hai vị Niên Trưởng thuộc K16/VB: Nguyễn Xuân Phúc và Phạm Văn Sắt.
MX Lê 
			Quang Liễn K20.
			Houston, Tháng 3 năm 2018
			
 
			Cách sử dụng "I" 
			và"Y"...
			Cải cách tiếng Việt
			Dấu "hỏi 
			& ngă" trong 
			tiếng Việt
			Luật dấu hỏi & ngă
			Gạch nối trong 
			tiếng Việt
			Xưng hô tiếng 
			Việt...
					
					55 năm rồi mới gặp!
					“Người 
					Việt” giết tiếng Việt!
					
					Hy sinh và mờ nhạt
					
					Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
					Về đây anh 2018
					Một Góc 
					Nh́n - Đại Hội Về Đây Anh 2018
					Dư Âm Ngày Đại Hội 
					2018
					Vết thương 43 năm
					Happy 
					Father’s Day - Cha ơi! Con rất hănh diện về Cha
					Biệt 
					Cách Dù tại Cổ Thành Quảng Trị năm 1972
					Lỗi tại tôi
					Những 
					cấp chỉ huy đáng Kính... Có người bạn đáng “Kinh”
					Nói 
			về tuổi trẻ sau 42 năm tỵ nạn...
					Chạnh ḷng 
					tháng Tư
					Cuộc t́nh 50 năm
					Một cuộc cờ đệnh 
					mệnh
					Những 
					chuyện “Phiếm” về cs Việt Nam
					Cuộc tṛ 
					chuyện bất ngờ
					Thư Hậu phương
					Nhắc chuyện xưa
					Bạn đường
					
			Một chuyến đi Oklahoma 
					Thăm lại 
					“Mái Nhà” xưa
					Hăy kể cho tôi 
					nghe
					
					Young Marines trong ngày Tưởng Niệm 30/04/17
					Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
				Sớ Táo Quân 
			TQLC - Đinh Dậu 2017 
					
					Đọc "Chặng Đường Nối Tiếp"
					NT Nguyễn 
					Thành Yên
					NT Hoàng Lăm
					Cái chào của Niên 
					Trưởng
					Chuyến 
				tản 
					thương cuối cùng 
				Tháng Ba chôn súng
				Các NT TQLC
				TQLC mà bà 
				không biết sao? 
				Người 
			Y-Tá chiến trường
				Thôi ! Ḿnh 
				về Linh Xuân Thôn, đi em !
				Một thời để nhớ
				T́m cha
				Biệt đội Sóng Thần
				Lăo lượm “Ve Chai”
				Trâu Điên Và Cố Vấn 
				Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...
				Trâu 
				Điên and Cố vấn Reunion 46 years later (1969-2015)
				
				Trung đội 2 Tiểu Đoàn 7 TQLC và những ngày cuối cùng
				Quận 
				Trưởng Quận Triệu Phong, Quảng Trị - Chuẩn Úy Lê Đ́nh Lời
				Người lính tiên 
			phuông
			Anh hùng bất tử
			40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại 
			đoạn đường
				Người 
			Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
			Mùa 
			Football năm nay sẽ không c̣n...
			Đoàn 76 tù binh
			Những con 
			Quạ Đen trên nóc nhà xác
			Mảnh đời tị nan tại Đức
			
			Người lính già không bao giờ chết
			Cơn mưa hạ Atlanta 
			2014
			Cánh Đại Bàng c̣n lại 
			giữa vùng trời TQLC
			Vui buồn đời 
			lính -T́nh đồng đội
			Nghĩa cử cao quư 
			Rũ áo thênh thang
			30-4 những 
			giờ phút sau cùng của một người Trung đội trưởng TQLC
			Người Việt Viết 
			Tiếng Việt. "Người Giệc Giết" Tiếng Việt
			Chỉ c̣n là kỷ niệm
			Chuyện về 
			cột cờ đầu tiên tại Little Saigon
			Nhớ Chú Cảo
			Chúc mừng Trường Can
			Chuyện ngày xưa…thật xưa
			Viết cho con gái Cao 
			Xuân Huy
			Những ngày vui ở 
			Nam Cali
			Ḍng sông êm đềm
			Điệp khúc buồn
			Cháu Ông Nội, Tội 
			Bà Ngoại!
			Nợ Mẹ hai tiếng 
			yêu thương
			Nỗi buồn tháng Tư
			Cuộc hội ngộ của Sĩ 
			Quan TQLC/VNCH  và em bé gái mà Ông đă cứu 41 năm trước... 
			
			Những cái chết 
			thầm lặng
			Dục Mỹ, ḷ luyện thép
			Người hát rong 
			nhạc vàng
			Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
			Nụ cười xinh
			Những ngày xưa thân ái
			Quê hương bỏ lại
			Biển vẫn đợi chờ
			Buồn vui Đại Hội 2012 
			tại Oregon
			Kỷ Niệm Ngày QL.VNCH. 
			19/6 - Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 37 năm nh́n lại...
			Nỗi ḷng người 
			lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
			Khóc bạn
			Người Lính TQLC bên 
			bờ Bến Hải
			Ông Cháu tựa má đầu
			Mùa xuân trên 
			đỉnh Torkham
			Chiến thắng đầu Xuân
			Một thời để yêu, một 
			thời để nhớ
			Tuổi 70… Chán mớ đời!
			Chút ân t́nh rất đỗi 
			mong manh
			Người c̣n nhớ 
			hay người đă quên
			Cao Xuân Huy - 
			Chuyện chưa ai kể
			Nhớ về Cao Xuân Huy 
			“Tháng Ba găy súng”
					
					Chút ánh nắng mặt trời trong mùa thu Oregon
					Ḍng sông tuổi 
					nhỏ
					Vui buồn đời 
					lính 1 - 
					2 - 3 
					- 4 -
					5
					Ḍng 
					thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
					Huyền 
					thoại chiến sĩ Mũ Xanh
					Cuộc chiến 
			không dừng ở đây
					Nỗi ḷng 
			biết ngỏ cùng ai?
					Chiêu hồn Quái 
			Điễu
					Thiên 
					hùng ca dựng một ngọn cờ
					Thuận 
			An, hành quân triệt thoái
			Thư t́nh viết muộn
			Người lính miền Nam
			Thăm lại Quảng 
			Trị – Khe Sanh & chiến sĩ vô danh
			Hăy thắp cho 
			anh một ngọn đèn
			Tôi đi lính...
			Giờ phúc 
			sau cùng của người Trung Đội Trưởng
			Đôi bờ chiến tuyến
			Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
			Thoáng nhớ ngậm ngùi
			Mối t́nh Sơn Khê
			Hai anh em tên Cờ, 
			họ Việt Nam Cộng Ḥa
			Hạt bụi vĩ đại
			Thư Khu Bưu Chính (KBC)
			Hai h́nh ảnh, một 
			cuộc đời
					Vé Đây! Vé Đây!
			Tháng 
			Ba buồn thiu, tháng Tư găy súng
			Bà Mẹ 
					Quê
					Ôm M60, M79 đánh ghen
					Nghe Nhạc 
					Trang Thủy