Tuổi trẻ Việt Nam
Xuân nhớ đến Mẹ
Người Lính Già (Đại
Bàng Tango)
Mùa Giáng Sinh xưa
Nhớ về chốn cũ
Nhớ nhà (Nhớ ngày ấy)
Saigon của tôi
T́nh sen
Mănh Hổ “Tây Đô”
Kư Ức khó quên
(Ngày tàn cuộc chiến)
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Khi tôi chết
(Tâm sự người lính già)
T́m phương giác
Gục đầu xuống
Đêm trăng nhớ
bạn
Người lính và
nỗi nhớ
Hương xưa của
tôi
Người lính VNCH
Huyền thoại mưa Sài G̣n
Vịt Tiềm
Thắp nhang cho
bạn
Tấm thẻ bài
Thăng trầm
Hoa nước mắt
Khi tôi đi
Độc ẩm
Nh́n đất mẹ
Nợ núi sông đă trả, chỉ c̣n nợ em
Tận cùng nỗi nhớ
Một câu hỏi
Một thoáng suy
tư
Mày hỏi tao
Bạc màu áo trận
Thơ - Đông Hương
1 - 2 -
3
Đồng đội
Quận Tư, xóm nhỏ
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Cảm xúc Tháng
Tư Đen
Nhớ Bạn tuổi thơ
Tháng Tư
hoài vọng
Nhớ Phá Tam
Giang
Khi cha già
cha sẽ về đâu??
Biển ấy, mùa này
Tháng Ba rồi ....
Một ngày và
một đời TQLC
Buồn như một sớm trời không nắng
Huế xa
rồi - Mai mốt về em nhé
Mê thư lính
T́nh khúc
cho một người
Nỗi nhớ buồn hiu
D́u nhau đi cho hết....
Chùm thơ Đông
Hương
Ta về
Ưu tư vận nước
Tưởng niệm 40 năm
Đêm ngủ tôi mơ
Tháng Tư
lại đến nữa rồi
Cái chết của một
tượng đá
Xuân Buồn
Anh sẽ đưa em về
Bức dư đồ
Tâm sự lính Mũ
Xanh
Ngồi xuống đây
Hăy nhặt ǵum
cha
Xin giữ
Mây tháng Tư
Xuân xứ người
Lời cho này anh
Giấc mơ tương
lai
Cô giáo Tịnh Như
Nhớ Cao Xuân Huy
Bông hồng Hậu
Nghĩa
Anh đi...
Chiều trên quê nội
Nội tướng của t́nh
thương
30 tháng 4 - Sống và Chết
Với MX Sóng Thần một
thuở...
Tháng Tư đen
Tao nợ mầy...
Pho tượng người
lính...
Đôi nạng gỗ...
Tôi nợ anh...
Chùm thơ Áo Trắng
Nhớ một chiều Xuân
Thơ của Trần Khoa Danh
Tâm sự người Thương Binh
Nhà xưa đă khép
Sông Lô
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
Những ngày xưa thân ái
Chắc hắn quên rồi
Riêng tôi, tôi nhớ:
Đồng làng mênh mông biển lúa
Sương mai đáp trắng cỏ đường
Hai đứa tôi,
Sách vở cặp chung
Áo quần nhàu giấc ngủ
Song song bước nhỏ chân trần
Gói cơm mo mẹ vắt xách tùng tơn
Nón rộng hỏng quai
Trong túi hộp diêm nhốt dế
Những ngày xưa êm đẹp thế
Không đem chung hai đứa một ngày mai
Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay
Tôi buồn tôi giận,
Đêm nay gặp hắn,
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
Xác hắn nằm bờ ruộng
Không phải hắn thuở xưa
Tôi cúi nh́n mặt hắn
Tiếc hắn thời ấu thơ.
Trên đây là bài thơ “Những Ngày Xưa
Thân Ái” do thi sĩ Phạm Hổ, người B́nh Định, sáng tác sau khi tập
kết ra Bắc được hai năm. Ông là một trong những người sáng lập Hội
Nhà Văn miền Bắc và cũng là một trong những nhân vật đầu tiên h́nh
thành nhà xuất bản Kim Đồng. Ông cũng đă từng là Phó trưởng ban đối
ngoại của Hội Nhà văn CS Việt Nam và là Chủ tịch Hội đồng văn học
thiếu nhi của Hội Nhà Văn này.
Cũng cần nói thêm, tác giả bài hát Những Ngày Xưa Thân Ái, nhạc sĩ
Phạm Thế Mỹ, chính là em ruột của thi sĩ Phạm Hổ.
Bài “Những Ngày Xưa Thân Ái” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ là một nhạc
phẩm hay. Thời đất nước bị chia đôi, dù là đang lúc có chiến tranh
nó vẫn được phổ biến rộng răi và được nhiều thế hệ thanh niên, học
sinh, sinh viên miền Nam yêu thích. Nó là một trong những nhạc phẩm
t́nh cảm viết về lính có giá trị như những nhạc phẩm cùng thời lúc
bấy giờ như: Chiều Mưa Biên Giới, Quán Nửa Khuya, Tàu Đêm Năm Cũ,
Trăng Tàn Trên Hè Phố, Mấy Dặm Sơn Khê, Nhớ Một Chiều Xuân, Sắc Hoa
Màu Nhớ, v.v.. bằng nhạc điệu và lời ca nó đă diển đạt được những
nỗi niềm thầm kín của người trai thời loạn. Nó chẳng những đáp ứng
được nhu cầu tâm lư của đại đa số người lính đang chiến đấu ngoài
chiến trường mà c̣n có khả năng diễn đạt cái t́nh cảm thiêng liêng
của những người có chung lư tưởng chiến đấu bảo vệ quê hương Miền
Nam tự do c̣n lại của ḿnh lúc bấy giờ. Thế nên, sau này ở vào giai
đoạn cuộc chiến khốc liệt nhất, hàng hàng lớp lớp trẻ chúng tôi đi
vào quân đội đă mang theo những nhạc phẩm này khắp nẻo đường đất
nước như một món ăn nhiều dinh dưỡng. Cảm ơn những nhạc sĩ tài hoa
đă dâng cho đời những cung bậc rung cảm, tuy sáng tác trong thời kỳ
khói lửa chiến chinh nhưng vẫn lăng đăng chất lăng mạn và đầy tính
nhân bản. Riêng ở miền Bắc, nó đă bị ghép vào loại nhạc với cái tên
“quỷ ma” ǵ đó như bao thân phận của những nhạc phẩm trữ t́nh thời
tiền chiến và lẽ đương nhiên là bị cấm.
Nhân tiện, tôi cũng muốn nhắc đến những ca khúc của Miền Nam ở vào
giai đoạn 1954-1959, giai đoạn của thanh b́nh và no ấm, người dân
miền Nam, nhất là dân quê mỗi khi nhắc lại cuộc sống ở giai đoạn này
thường tặt lưỡi luyến tiếc. Những ca khúc được sáng tác ở giai đoạn
này hầu hết là ca ngợi cuộc sống no ấm an lành mà người dân quê Việt
Nam đang hưởng trong thanh b́nh như: Trăng Rụng Xuống Cầu, Bức Hoạ
Đồng Quê, Tiếng Ḥ Miền Nam, Gạo Trắng Trăng Thanh, Khúc Ca Ngày
Mùa, Trăng Về Thôn Dă, Hương Lúa Miền Nam, Khúc Hát Ân T́nh, v.v...
Riêng đối với người dân miền Bắc ở giai đoạn này dưới chế độ cộng
sản th́ đă như thế nào? Phải chăng là cả một giai đoạn kinh hoàng?
không nói ra, nhưng cái chắc là ai cũng biết.
Giới nhạc sĩ miền Nam dưới chính thể VNCH lúc bấy giờ được hưởng
trọn cái không khí thoải mái của một chế độ mà quyền tự do tư tưởng,
tự do sáng tác được tôn trọng, nên chi, họ đă thoải mái sáng tác
nhạc bằng cả ḷng say mê nghệ thuật gắn bó với t́nh yêu quê hương,
t́nh yêu đồng bào và xa hơn là t́nh yêu nhân loại. Nó khác với thân
phận của những nghệ sĩ tài hoa thời tiền chiến ở miền Bắc sau 1954
bị g̣ bó trong khuôn khổ và chỉ được quyền sáng tác dưới cây gậy chỉ
huy của các quan văn nghệ “đỏ”, do đó những giọng điệu sắt máu, ngập
đầy thù hận “máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu” đă được tung ra làm
áp lực hỗ trợ cũng như bảo vệ cái thế chế cai trị hà khắc, độc tài
sắc máu của chế độ CS miền Bắc.
Người ta không thể nào tưởng tượng được một thi sĩ tài hoa Xuân Diệu
với những áng thơ t́nh lăng mạn thời tiền chiến, chỉ v́ tham sống
ngại khổ mà đành cam xoay chiều viết lên những lời thơ hung dữ kêu
gọi bạo lực, kêu gọi hận thù.
…
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đ́nh làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.
(Trích Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 22 và 23 - DCVOnline)
Hay
“Máu kêu máu trả thù
Súng đâu anh em đâu
Bắn nó thủng yết hầu
Bắn tỉa bắn dài lâu...”
(Trích “Xuân Diệu: Làm thơ? Làm thợ?” của Nguyễn Mạnh Trinh-
DCVOnline)
Đúng là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu với quan văn nghệ
đỏ Tố Hữu, “Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ, … Thờ Mao chủ
tịch, Stalin vĩ đại”
C̣n đâu những áng thơ t́nh lăng mạn mà Xuân Diệu đă sáng tác trước
khi phục tùng đảng?
…
Hăy sát đôi đầu! Hăy kề đôi ngực!
Hăy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
Những cánh tay! Hăy quấn riết đôi vai!
Hăy dâng cả t́nh yêu lên sóng mắt!
Hăy khăng khít những cặp môi gắn chặt
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng;
Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng:
“Gần thêm nữa! Thế vẫn c̣n xa lắm!”
(Trích bài thơ Xa cách của Xuân Diệu viết tặng Đỗ Đức Thu -
DCVOnline)
Sau 1975, Lê Hữu Mục, nguyên giáo sư Đại học Văn khoa và Sư phạm Sài
G̣n gặp nhà thơ Xuân Diệu, sau đây là mẩu đối thoại giữa hai người.
- Ngày xưa anh rất thành công, chúng
tôi qúy mến anh lắm. Nhiều nữ sinh chép thơ của anh học thuộc ḷng.
Chúng tôi trong này dạy thơ Xuân Diệu ở Đại học Văn khoa. C̣n bây
giờ anh sáng tác ra sao?
Xuân Diệu lừng khừng đáp:
- Tôi vẫn sáng tác như ngày xưa.
- Chúng tôi không được đọc bài thơ nào của anh hay như ngày xưa nữa!
- Tôi có viết cho tôi nữa đâu. Tôi viết cho quần chúng đấy chứ.
Họ có tŕnh độ thấp, ít học, do đó tôi không thể viết ra những ǵ
gọi là tinh hoa của tôi được.
- Vây anh có tin những ǵ anh viết cho họ không?
Xuân Diệu vẫn lừng khừng nói:
- Việc ǵ phải tin. Cần ǵ phải tin.
(Trích “Hội Văn Hóa Việt Phỏng Vấn Gs. Lê Hữu Mục về huyền thoại Hồ
Chí Minh” của Tinh Vệ - DCVOnline)
Qua cách trả lời vừa lừng khừng vừa nhát gừng trên, cho thấy ông ta
vẫn c̣n ít nhiều nuối tiếc thủa xa xưa, nhưng vẫn sợ thiếu cảnh
giác, không có lập trường, mất đảng tịch. Thật là đáng tiếc.
Tôi c̣n nhớ như in, vào những dịp cuối tuần gia đ́nh xum họp, nhất
là những chiều lạnh miền trung có mưa lất phất, mấy chị em chúng tôi
quây quần bên nồi chè nóng hổi, hay những chiếc bánh ngọt do tự tay
mẹ tôi làm, râm ran bao chuyện buồn vui để rồi sau đó cùng nhau say
sưa hát những nhạc phẩm mà chị em chúng tôi cho là hay bên cây đờn
Mandolin với niềm hứng khởi, “Trong đêm trăng, tiếng chày khua, ta
hát vang trong đêm trường mênh mang”, “Cười lên đi trăng sắp tàn
bóng xế, hát lên đi để nung ḷng nhân thế, để đồng xanh vang khúc ca
ngày mùa”, “Em có nghe chăng dư âm đồng quê, khi trăng ngàn mờ tỏa
chiếu trên đê. Đoàn người nông phu vui gánh lúa về. Bóng trai gái
làng hẹn ḥ nhau ước thề”.
Ngay cả những nhạc phẩm viết về lính cũng được chị em chúng tôi hết
ḷng chiếu cố, “Ngày tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người
trai lính ngày nào. Tàu cũ năm xưa mang người t́nh biên khu về chưa?
Trắng đêm tôi chờ nghe tiếng tàu đêm t́m về ...”
“Người đi khu chiến thương người hậu phương, thương màu áo gửi ra sa
trường... Nh́n em muốn nói chuyện người Kinh Kha, ngại khơi nước mắt
nhạt nḥa môi em ...”
Hay
“...Thời gian qua mau, t́m anh nơi đâu?
Tôi về qua xóm nhỏ, con đ̣ nay đă già
Nghe tin anh gục ngă
Dừng chân quán năm xưa
Uống nước dừa hay nước mắt quê hương...”
Thật ra sở dĩ chị em chúng tôi thỉnh thoảng tụ hát với nhau là do
công khuyến khích của chị tôi cũng như ngón đờn Mandolin điêu luyện
của người em rể tương lai trong gia đ́nh. Chị tôi, Lê Thị Thanh Vân
là một trong những giọng ca của trường trung học Nguyễn Huệ tại
thành phố nhỏ bé miền Trung Tuy Ḥa lúc bấy giờ. Nhờ có chút nhan
sắc và giọng ca tốt nên chị thường được làm “ca sĩ” mỗi khi trường
có tổ chức văn nghệ, cũng có khi vào dịp lễ Hai Bà Trưng chị được
chọn ngồi trên ḿnh voi đi diễu hành trên đường phố chính. Là em,
tôi hănh diện ở chị điều này.
Thời gian hun hút trôi, bao nhiêu vật đổi sao dời, bao nhiêu thăng
trầm dâu bể, gia đ́nh chị em chúng tôi phân tán mỗi người mỗi ngă. Ở
hải ngoại thỉnh thoảng tôi vẫn được chị nhắc nhớ những kỷ niệm này
khi liên lạc với tôi. Trong tập thơ “Ngày Ấy Bây Giờ” của ḿnh, chị
có sáng tác tặng tôi bài thơ tựa đề “Chị Em” phảng phất nỗi niềm
tiếc nuối về “Những Ngày Xưa Thân Ái” của chị em chúng tôi ở Tuy Ḥa
mà bây giờ chỉ c̣n là vang bóng.
Nhận thư em viết từ hải ngoại
Nỗi nhớ thương đăm đắm quê nhà
Từng con chữ nhạt nḥa nước mắt
Thương em lưu lạc trời xa
Ḿnh cách nhau nửa ṿng trái đất
B́nh minh bên này bên ấy c̣n đêm
Em có đếm bao v́ sao sáng
Như đêm xưa bên chị êm đềm
Đàn chim sẻ xà bay ríu rít
Hai chị em nô nức đến trường
Chiếc Ca lô trên đầu em đội lệch
Giống chú lính kèn chuyện lẻ một đêm
Có những hôm trời mưa tầm tă
Chị em ḿnh chỉ một áo tơi
Mẹ tất tưởi đường làng ra đón
Nhớ mẹ xưa ḷng chị ngậm ngùi
Gửi em chút nắng vàng ấm áp
Ngọn cỏ đùa theo gió liêu xiêu
Bên trời ấy tuyết buồn xa xứ
Chị đằm sâu chút kỷ niệm cuối chiều
Chuyện xa xưa tuổi nhỏ giữa hai chị em đă được chị tôi khéo léo nhắc
lại qua những ḍng thơ t́nh cảm nhẹ nhàng đă gợi dậy trong tôi cả
một bầu trời thương yêu xưa cũ. Những h́nh ảnh ngày xanh chập chùng
trở về trong kư ức, nó lởn vởn đâu đó để ḷng ngỡ như mới ngày nào.
Đă trên năm mươi mấy năm rồi c̣n ǵ! Với ḍng bất tận của thời gian
th́ năm mươi mấy năm không là ǵ, nhưng nếu đem so với một kiếp
người th́ rơ là đáng kể. Gia đ́nh ba má tôi có 9 người con, chị cả
tôi mất ngay khi c̣n bé do đói khát bệnh tật đang lúc chạy loạn
trong chiến tranh, tôi là con thứ ba trong gia đ́nh, vậy mà em gái
út của tôi năm nay đă trên 50 tuổi rồi c̣n ǵ. Thời gian hun hút,
bao nhiêu lớp sóng phế hưng, bao nhiêu vật đổi sao dời, bao nhiêu
thăng trầm dâu bể, bao ước mộng không thành, nh́n lại, thấy ḿnh như
chiếc áo nhăn đang lững thững đi vào buổi chiều của cuộc đời. Một
bài thơ sáng tác gần đây nói lên tâm trạng này như là một chấp nhận
cái thực tế hiện hữu của tôi và chị.
Tuổi già đuổi bắt sau lưng
Hụt hơi thoát chạy hết gần lại xa
Tỏm rơi xuống vũng chiều tà
Cuộc chơi c̣n lại được là bao canh
Bao nhiêu mộng ước không thành
Sầu quanh mỏi gối chồn chân một ḿnh
Buồn trông theo đám lục b́nh
Nông sâu trong đục lênh đênh theo ḍng
Bập bềnh giữa có và không
Bọt bèo chi nữa bận ḷng thế gian
Nhạc phẩm “Những Ngày Xưa Thân Ái” th́ tôi biết và thích đến vậy,
riêng bài thơ “Những Ngày Xưa Thân Ái” của thi sĩ Phạm Hổ th́ tôi
hoàn toàn mù tịt, chỉ đợi cho đến khi đi tù “cải tạo” và sau này qua
t́m hiểu tôi mới biết bài thơ quay lưng lại với t́nh cảm thiêng
liêng tự nhiên của con người và nuôi dưỡng ḷng hận thù này là của
thi sĩ Phạm Hổ, anh ruột của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ.
Chắc là nhờ có ḷng căm thù và quyết tâm cao như vậy nên chi ông đă
được đảng và nhà nước bố trí công tác tại Hội Nhà Văn với chức vụ
Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi của hội này th́ phải? Do vậy,
tôi đă chẳng ngạc nhiên là tại sao nhiều thế hệ trẻ dưới chế độ CS
miền Bắc mà tôi thường gặp khi nhắc đến những từ ngữ như: địch ta,
mỹ ngụy, chế độ miền Nam hay tư sản mại bản, giai cấp bóc lột là họ
tỏ rơ thái độ không thiện cảm ra mặt. Tôi cũng được biết thêm là,
sau năm 1975 nhạc sĩ tài hoa Phạm Thế Mỹ đă công tác tại Pḥng Văn
hóa Thông tin Quận 4 Sài G̣n, ông đă tích cực tham gia sáng tác theo
phong trào do Đảng tổ chức, nhưng tiếc là không có một sáng tác nào
lúc bấy giờ tương xứng với tài hoa đích thực của ông và h́nh như
cũng không có ca sĩ nỗi tiếng nào tự nguyện hát những nhạc phẩm này.
Nào là Thắm đượm duyên quê, Lêna Belicova, v.v... và ngay cả bài
“Nhớ ơn Bác, nhớ ơn Đảng” mà ông sáng tác dự thi đoạt giải nhất ở
phong trào sáng tác của Thành Đoàn vào thập niên 80 cũng như giải
nh́ Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh cũng đă bị bỏ ch́m vào quên
lăng.
Về hưu, sống âm thầm, thiếu thốn tại một căn nhà nhỏ ở Quận 4, Sài
G̣n ông mất năm 2009, sau một thời gian dài bệnh tật, ở tuổi 79.
Cũng vậy, có một người con Phú Yên tập kết ra Bắc rồi trở thành một
nhà thơ nổi tiếng, nhà thơ Nguyễn Mỹ tác giả của bài thơ “Cuộc chia
ly màu đỏ”.
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ.
Tôi nh́n thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
…
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa.
…
Bài thơ từng được đưa vào tuyển thơ “Sức mới” do đích thân nhà thơ
nổi tiếng “khó tính” Chế Lan Viên tuyển chọn. Sau này, bài thơ đă
được đưa vào giảng dạy trong nhà trường XHCN. Cả một đời phục vụ cho
đảng thế mà lúc cuối đời ông đă bị đảng và các đồng chí của ông hất
hủi như con chó ghẻ. Câu chuyện được chính báo chí trong nước phổ
biến như sau:
...Vào những ngày cuối đời của nhà thơ Nguyễn Mỹ, ông gần như bị
cách ly với cuộc chiến đấu và với cả đồng đội. Sau ngày giải phóng,
phải thẩm tra măi, cách đây mấy năm, nhà thơ mới được công nhận là
liệt sĩ.
Số là ở quê tại Phú Yên, ông có một bà mẹ, bà rất nông dân, một hôm
bị bắt trộm con gà, mà người bắt chính là mấy anh... du kích xă. Hồi
ấy các anh du kích trẻ đói nên việc ấy cũng thường xảy ra. Tiếc gà,
bà chửi như tất cả những người nông dân mất gà khác. Bà chửi liền
mấy ngày đêm th́ bị chính mấy anh du kích này bắn chết, nhưng họ lại
báo lên trên rằng bà là Thiên Nga. Trên báo lên trên tiếp... Thế là
Nguyễn Mỹ tự nhiên bị cách ly, được phân ra rẫy ở một ḿnh đuổi khỉ
và chim, tự túc lương thực thực phẩm. Một người b́nh thường cô đơn
đă khổ, huống ǵ đây lại là nhà thơ của “Cuộc chia ly chói ngời sắc
đỏ/ Tươi như cánh nhạn lai hồng... Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi/ Như
chia hề có cuộc chia ly...”, nhà thơ mỏng manh nhạy cảm và có thể cả
yếu đuối nữa, thế mà một ḿnh một khu rừng trong nỗi mặc cảm dày ṿ
khắc khoải không được giải thích và có thể là cả ân hận nữa th́ nỗi
cô đơn đau khổ nhân lên gấp mấy lần? Ở lâu như thế, hoàn toàn mù tịt
với t́nh h́nh và cả cách đánh của địch, một hôm ông gặp một tốp biệt
kích nhưng lại hóa trang mặc quân phục giải phóng. Mừng quá, ông
nhào ra vẫy rối rít: “Các đồng chí ơi, tôi đây...” Thế là ông bị bắn
chết.
(Trích “Chuyện bi tráng về nhà thơ Nguyễn Mỹ”, Văn Công Hùng, Báo
Sức khỏe & đời sống – DCVOnline)
Từ vườn xoan anh băng sang vườn khế
Lên đồi sim rồi lại xuống ruộng cà
Đâu cũng tím một trời thương nhớ
Biết mấy màu tím ở trồng hoa
Sao anh gọi em là hoa cúc tím
Mà em vẫn lặng thầm sâu kín
Ôi nỗi ưu tư của đất lành
Anh đă đến rồi. Em hăy trả lời anh
Em mang chi tiếng đàn bầu trong mắt
Cho đến nỗi đêm thu anh d́u dặt
Em mang chi màu nắng dưới làn da
Để t́nh anh như trái chín say ngà
Bài thơ trên là một bài thơ t́nh của nhà thơ Nguyễn Mỹ c̣n lưu lại,
thật tiếc cho một người con Phú Yên v́ “yêu nước” sai, đi theo cộng
sản để cho mẹ ḿnh bị họa vào thân và ngay cả bản thân ḿnh cũng bị
chết một cách oan uổng.
Trở lại trường hợp của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, sau khi ông mất, có một
cuộc tranh căi thật khôi hài để xác định là nên xếp nhạc của ông vào
thể loại nào? vàng hay đỏ? cuối cùng người ta tạm đồng ư là xếp vào
cả 2 ḍng nhạc đối lập này.
Không hiểu là dựa trên thực tế hay do ngộ nhận mà có người cho rằng
trước 1975 th́ ông sáng tác nhạc cho người lính VNCH, nhưng sau đó
th́ lại sáng tác ca ngợi Bác và Đảng. Họ chứng minh bằng những nhạc
phẩm viết về lính trước 1975 như, “Những ngày xưa thân ái”, “Thư về
em gái thành đô”, “Trăng tàn trên hè phố”, v.v... Tuy nhiên có người
bảo ông viết “Trăng tàn trên hè phố” là viết cho một du kích nằm
vùng.
Anh sống đời trai giữa núi đồi
Tôi viết bài ca xây đời mới
Bờ tre quê hương
Tay súng anh ǵn giữ
Tôi hát vang giữa đời để người vui
Cũng có người cho rằng những sáng tác trước 75 của nhạc sĩ Phạm Thế
Mỹ là những sáng tác được quyện chặt với một tấm ḷng nhưng v́ đă
dùng dằng giữa gia đ́nh và xă hội, một bên là người anh ruột cộng
sản thứ thiệt của ḿnh và một bên là xă hội tự do nên đă không có
lập trường dứt khoát! Sống với xă hội Miền Nam nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ
đă có cơ hội phát triển hết tài năng của ḿnh nhưng rồi chỉ v́ t́nh
cảm anh em đă níu kéo hồn ông hướng về phía bên kia chiến tuyến, đến
khi làn sóng đỏ phủ ngập miền Nam th́ con người nhạc sĩ tài hoa ấy
cũng bị nhuộm đỏ. Ông đă không những sáng tác nhạc ca ngợi bác đảng
mà c̣n lên mặt cả với những bằng hữu nghệ sĩ trước 75, hơn nữa, ngay
cả bản thân ông c̣n chứng tỏ ḿnh chuyên chính hơn cả những người
cộng sản chính hiệu từ Bắc vô Nam. Thật là đáng tiếc!
Tôi viết những ḍng trên cốt nói về "Những Ngày Xưa Thân Ái" không
phải đóng hai chữ thân ái trong ngoặc kép là viết về nhà thơ Phạm Hổ
và nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ c̣n Những Ngày Xưa "Thân Ái" có hai chữ thân
ái trong ngoặc kép là viết về chúng tôi. Phạm Văn Mài và Lê Nam Sơn.
Vài năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức thống nhất, ḥa
b́nh trong danh dự, ḥa cùng không khí hội nhập đáng yêu ấy, anh chị
em tỵ nạn CSVN thuộc TTVN Hannover thỉnh thoảng có tổ chức những
buổi hội thảo hay những đêm văn nghệ thính pḥng với chủ đề "Xa quê
hương không quên tổ quốc lầm than" với không ngoài mục đích là nung
nấu tinh thần đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền cho quê
hương VN ḿnh. Những buổi hội thảo, những đêm văn nghệ thính pḥng
này đă quy tụ hầu hết những anh chị có ḷng với quê hương đất nước,
không phân biệt bất cứ thành phần nào.Với chủ trương đấu tranh ôn
ḥa không bạo lực nhưng cương quyết và nhất là tôn trọng mọi ư kiến
khác biệt đă thu hút được sự chú ư của một thiểu số người trong cộng
đồng người Việt tỵ nạn CS tại đây. Lẽ dĩ nhiên, ở thời điểm lúc bấy
giờ (1992) có không ít những đồng hương chống đối, không chia sẻ với
lối "đấu tranh ôn ḥa, dân chủ đa nguyên, tôn trọng mọi ư kiến khác
biệt" mới mẻ này.
Trong pḥng họp ấm cúng của tổ chức Hồng Thập Tự thuộc thành phố
Hannover, không gian lặng im, mọi người chờ đợi và chăm chú vào
người đàn ông trạc tuổi 38-40, dáng dấp nửa chân quê nửa phố thị với
chiếc đàn guitar trên tay, sau phần tự giới thiệu về ḿnh cũng như
tại sao anh chọn hát nhạc phẩm Những Ngày Xưa Thân Ái của nhạc sĩ
tài hoa Phạm Thế Mỹ, sau đó nhạc phẩm được cất lên vừa mượt mà
truyền cảm lại vừa ray rứt thiết tha, lúc xuống trầm hoài niệm khi
vút cao nhắn nhủ đưa cảm xúc khán giả giạt trôi theo từng tiếng đàn
điệu nhạc.... giọng hát như ẩn chứa nhiều đam mê này được kéo dài
vang vọng rồi tan dần theo tiếng vỗ tay tán thưởng vang cả pḥng
họp. Phạm Văn Mài đă chinh phục trọn vẹn trái tim của người thưởng
thức. Riêng tôi, với niềm xúc cảm mănh liệt, lời nhạc và giọng ca có
sức cuốn hút này như đă khơi dậy trong tôi cả một trời thương nhớ.
Như một đêm nhạc thính pḥng, mỗi người tham gia chương tŕnh văn
nghệ tự làm MC cho ḿnh, dẫn khán giả đi vào những ngơ ngách của
từng nhạc phẩm, của từng lời thơ với tất cả niềm hứng khởi. Lẽ dĩ
nhiên, tôi cũng được mọi người đề nghị tŕnh bày một bài thơ do tôi
sáng tác. Do đề nghị nên bài thơ "Quê Hương Qua Lời Bà Ru" được tôi
tŕnh bày sẽ duoc Mài đệm guitar. Trước khi chép ra đây tôi cũng xin
có "đôi ḍng phi hộ" nguyên nhân từ đâu tôi đă sáng tác bài thơ này.
Khi c̣n nhỏ tôi được Bà tôi kể nhiều chuyện về quê hương. Bà thường
ngậm ngùi nhắc đến những câu chuyện thương tâm của người dân phải
chạy tản cư trong thời chiến tranh loạn lạc tại đất Quảng Nam. Có
lần trong lúc chạy loạn Bà tôi hoảng hốt ẵm cháu nhỏ đặt lên một đầu
quang gánh, c̣n đầu gánh bên kia là một cục đá nhặt ở bên đường để
cho gánh được cân bằng. Nhưng than ơi! Đứa cháu nhỏ (*) bé ấy đă
chết yểu v́ bệnh tật và đói khát.
Cái quang gánh giờ đây chỉ c̣n trong kư ức, Bà tôi th́ đă về với đất
từ lâu nhưng mỗi lần nghĩ về Bà tôi vẫn thường hay lẫn lộn t́nh yêu
giữa Bà với quê hương mà tôi yêu quư.
"Ai đi về phía quê tôi
Làm ơn cho nhắn vài lời nhớ thương"
Quê nhà tôi vùng khô cằn sỏi đá
Xứ Quảng(**)xa xôi nắng gió cũng nhiều
Ôm ấp Trường Sơn ra biển cả
Chiến tranh loạn lạc biết bao điều
Bà tôi bảo quê ḿnh nghèo lắm
Sắn khoai đâu đủ sức nuôi người
Cỏ không mọc nơi đồi hoang triền nắng
Bằng sức người sỏi đá cũng im hơi
Dân lam lũ suốt đời v́ cơm áo
Khổ chất chồng khổ măi không thôi
Nghe vang vọng nỗi buồn sông núi
Người nối người máu lệ tuôn rơi
Từ dạo quê hương hoen bóng giặc
Mái nhà tranh xơ xác tiêu điều
Bom rơi pháo dội rền thôn xóm
Khói lửa điêu tàn buổi chiến tranh
Trong cơn lửa bỏng dầu sôi ấy
Bà vẫn ru êm giấc mộng lành
Điệu ru Ba Lư sao mà lạ
Đường xa vấp ngă cố vùng lên
Gánh cháu trên đường lưu lạc xứ
Bên đầu quang gánh, gánh chông chênh
Chuyện kể nghẹn ngào qua nước mắt
Cầm ḷng không hỏi... Sợ đau thêm
Chiều nay lặng ngắm hoàng hôn xuống
Mây xám sầu giăng phía cuối trời
Bà đă lâu rồi về với đất
Lời ru bà vẫn thức ở trong nôi
Bà đă lâu rồi về với đất
Lời ru bà vẫn thức ở trong tôi
Với cháu tấm ḷng yêu đất nước
Quê hương và Bà chỉ một thôi
Bà là h́nh bóng quê thương nhớ
Ghi khắc trong tim cháu một đời
(*) Đứa cháu nhỏ chết yểu ấy chính là chị ruột của tôi
(**) Cha mẹ tôi gốc Quảng Nam
Sau buổi văn nghệ, tôi và Mài đă có những tâm sự với nhau và ô hay,
chúng tôi đă khám phá được rằng có những t́nh cờ không nằm trong một
quy luật nào, nó ùa đến một cách bất ngờ đến khó tin. Qua duyên văn
nghệ chúng tôi kết thân nhau mà nhạc phẩm "Những Ngày Xưa Thân Ái"
là một trong những nguyên nhân.
Như đă nói, tôi thích nhạc phẩm Những Ngày Xưa Thân Ái và được tự do
hát đă là đương nhiên, không ǵ phải thắc mắc, nhưng c̣n Mài th́
sao? ở ngoài Bắc dù là ai, ngoài dân dă hay trong bộ đội, tất cả mọi
sinh hoạt đều bị theo dơi, quyền tự do tư tưởng không được tôn
trọng, thậm chí bị cấm đoán, nhất là những bộ môn thuộc về văn hóa
không nằm trong sự kiểm soát của nhà nước th́ càng bị cấm ngăn triệt
để. Thế th́ làm sao Mài biết được mà hát? Mà lại hát hay và truyền
cảm nữa chứ.
Tôi đặt nghi vấn này với Mài và đă được Mài thành thật trả lời là
khi xâm nhập vào Nam do tiếp xúc được với thành phần du kích ở trong
Nam mà biết được nhạc phẩm này, đây là lần đầu tiên tiếp xúc được
với một nhạc phẩm t́nh cảm ở trong Nam và thấy nó hay như thế nào?
v́ quá thích, Mài đă học thuộc ḷng và lén lút nghêu ngao mỗi khi
thơ thẩn một ḿnh. Như bao người lính của miền Nam, Mài đă giữ nó
chung với những hành trang trên bước đường Trường Sơn xâm nhập vào
Nam.
Ở mặt trận Quảng Trị năm 1972, những đơn vị thiện chiến của cả hai
bên được tung vào chiến trường này ḥng dành ưu thế trên bàn hội
nghị Paris. Đơn vị của Mài là sư đoàn 304, sư đoàn được mệnh danh là
"một trong những quả đấm thép" của Quân đội Nhân dân miền Bắc với
nhiệm vụ làm nỗ lực chính trong việc đánh chiếm Quảng Trị mà trọng
điểm của nó là cổ thành Đinh Công Tráng.
Đơn vị của tôi là sư đoàn TQLC được mệnh danh là một trong hai thanh
kiếm báu của Quân lực VNCH (Nhảy Dù và TQLC) cũng với nhiệm vụ làm
nỗ lực chính trong công cuộc tái chiếm cổ thành này.
Những đơn vị thiện chiến hai bên quần thảo với nhau bằng những trận
đánh kinh hồn ḥng chiếm cho được cái "Thành Cổ" dù chỉ c̣n là đống
gạch đổ nát. Sau này, mỗi khi nhắc lại cái trận "Cổ Thành" nghiệt
ngă này những người sống sót trở về thường ví von nó với cái tên
tượng h́nh đầy ấn tượng "Cỗ máy nghiền thịt" để thấy sự khốc liệt
của nó là đến ngần nào. Ở cấp bực nhỏ trong quân đội, chúng tôi đă
không có được tầm nh́n về những nhu cầu chiến lược hay mục tiêu
chính trị và ngay cả quân sự của giới có thẩm quyền. Chúng tôi chỉ
được biết điều trước mắt là phải nhắm thẳng vào kẻ thù mà bắn ḥng
cứu được cái chết cho chính ḿnh và đồng đội mà giành cho được chiến
thắng. Bởi vậy ở hai đầu chiến tuyến, lúc tấn công, khi pḥng thủ,
dù là trong chiến hào, ngoài băi trống hay phải đối mặt cận chiến
chúng tôi đă nh́n nhau bằng mắt lửa hận thù và nói chuyện với nhau
bằng M16, AK47, bằng M79, B40, bằng pháo 105 ly, 122 ly v.v.. và
ngay cả lưỡi lê khi cần thiết.
Hai người lính năm xưa sống xót trở về, kẻ chiến thắng người chiến
bại cuối cùng gặp nhau trên nước Đức thống nhất. Không chấp nhận
sống dưới chế độ độc tài tàn bạo CSVN, ra khỏi nhà tù cải tạo CS,
không thấy tương lai tôi đă phải liều ḿnh vượt biển. Riêng Mài th́
lúc đầu "Hợp tác lao động" làm thân thợ khách với những mong giúp đỡ
gia đ́nh đang sống cuộc sống nghèo khó sau chiến tranh tại VN nhưng
sau đó t́m cách ở lại qua h́nh thức tỵ nạn chính trị.
T́nh cờ gặp nhau trên nước Đức và qua duyên văn nghệ chúng tôi đă
trở thành thân thiết. Chúng tôi nhắc lại chiến trường xưa như nhắc
lại một chứng tích của những cuồng ngông đầy máu và nước mắt. Là nạn
nhân, chúng tôi thấm thía được cái giá phải trả của chiến tranh và
ḷng thù hận.
Qua những buổi văn nghệ, nhạc phẩm "Những ngày xưa thân ái" của nhạc
sĩ Phạm Thế Mỹ đă được hai chúng tôi mang theo làm hành trang cho
cuộc hóa giải hận thù ở những nơi mà ḷng thù hận giữa những người
VN với nhau đang c̣n bừng bừng hay vẫn c̣n âm ỉ.
Berlin, Warshau, Praha, Paris.... là những nơi chúng tôi đă đến và
cùng hát với nhau nhạc phẩm Những Ngày Xưa Thân Ái mong sẽ đem niềm
thân ái đến với bao vết thương ḷng VN c̣n rỉ máu, với những mong
quê hương thoát khỏi chế độ CS độc tài, có được tự do dân chủ để con
cháu VN chúng tôi xử sự tử tế với nhau thay v́ thù hận như thế hệ
cha ông chúng.
Thêm một t́nh cờ đến thú vị là có người đă phát hiện ra rằng nếu để
tên Mài đứng riêng th́ quả khó có ai muốn lấy nó đặt tên cho ḿnh,
nhưng khi được ghép chung với tên tôi th́ nó trở thành tên của một
thể loại thủ công truyền thống thuộc nghệ thuật hội họa Việt Nam.
Cũng vậy tôi cũng đă đề nghị với Mài là nên lấy nick name cho ḿnh
trong Email là MaiHuyền (mai huyền mài) cho nó hay và có chút lăng
mạn.
Thật ra Những Ngày Xưa "Thân Ái" của hai chúng tôi nếu nói theo
nghĩa đen trần trụi th́ không có ǵ gọi là thân ái mà hoàn toàn
ngược lại. Cũng bởi vậy mới có bài báo viết trên tờ Interkulturelle
Stadtteilzeitung im Lindenspiegel dưới tựa đề bằng tiếng Đức "Von
feinden zu Freunden. Eine deutsch-vietnamesische Spurensuch" tạm
dịch "Từ thù thành bạn. Đi t́m một chứng tích Đức-Việt" với nội dung
viết về câu chuyện của chúng tôi "Sơn-Mài".
SongLo
Cách sử dụng "I"
và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi
& ngă" trong
tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong
tiếng Việt
Xưng hô tiếng
Việt...
Cuộc tṛ
chuyện bất ngờ
Thư Hậu phương
Nhắc chuyện xưa
Một chuyến đi Oklahoma
Thăm lại
“Mái Nhà” xưa
Hăy kể cho tôi
nghe
Young Marines trong ngày Tưởng Niệm 30/04/17
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Sớ Táo Quân
TQLC - Đinh Dậu 2017
Đọc "Chặng Đường Nối Tiếp"
NT Nguyễn
Thành Yên
NT Hoàng Lăm
Cái chào của Niên
Trưởng
Chuyến
tản
thương cuối cùng
Tháng Ba chôn súng
Các NT TQLC
TQLC mà bà
không biết sao?
Người
Y-Tá chiến trường
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Một thời để nhớ
T́m cha
Biệt đội Sóng Thần
Lăo lượm “Ve Chai”
Trâu Điên Và Cố Vấn
Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...
Trâu
Điên and Cố vấn Reunion 46 years later (1969-2015)
Trung đội 2 Tiểu Đoàn 7 TQLC và những ngày cuối cùng
Quận
Trưởng Quận Triệu Phong, Quảng Trị - Chuẩn Úy Lê Đ́nh Lời
Người lính tiên
phuông
Anh hùng bất tử
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại
đoạn đường
Người
Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Mùa
Football năm nay sẽ không c̣n...
Đoàn 76 tù binh
Những con
Quạ Đen trên nóc nhà xác
Mảnh đời tị nan tại Đức
Người lính già không bao giờ chết
Cơn mưa hạ Atlanta
2014
Cánh Đại Bàng c̣n lại
giữa vùng trời TQLC
Vui buồn đời
lính -T́nh đồng đội
Nghĩa cử cao quư
Rũ áo thênh thang
30-4 những
giờ phút sau cùng của một người Trung đội trưởng TQLC
Người Việt Viết
Tiếng Việt. "Người Giệc Giết" Tiếng Việt
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Chuyện về
cột cờ đầu tiên tại Little Saigon
Nhớ Chú Cảo
Chúc mừng Trường Can
Chuyện ngày xưa…thật xưa
Viết cho con gái Cao
Xuân Huy
Những ngày vui ở
Nam Cali
Ḍng sông êm đềm
Điệp khúc buồn
Cháu Ông Nội, Tội
Bà Ngoại!
Nợ Mẹ hai tiếng
yêu thương
Nỗi buồn tháng Tư
Cuộc hội ngộ của Sĩ
Quan TQLC/VNCH và em bé gái mà Ông đă cứu 41 năm trước...
Những cái chết
thầm lặng
Dục Mỹ, ḷ luyện thép
Người hát rong
nhạc vàng
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
Nụ cười xinh
Những ngày xưa thân ái
Quê hương bỏ lại
Biển vẫn đợi chờ
Buồn vui Đại Hội 2012
tại Oregon
Kỷ Niệm Ngày QL.VNCH.
19/6 - Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 37 năm nh́n lại...
Nỗi ḷng người
lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Khóc bạn
Người Lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Ông Cháu tựa má đầu
Mùa xuân trên
đỉnh Torkham
Chiến thắng đầu Xuân
Một thời để yêu, một
thời để nhớ
Tuổi 70… Chán mớ đời!
Chút ân t́nh rất đỗi
mong manh
Người c̣n nhớ
hay người đă quên
Cao Xuân Huy -
Chuyện chưa ai kể
Nhớ về Cao Xuân Huy
“Tháng Ba găy súng”
Chút ánh nắng mặt trời trong mùa thu Oregon
Ḍng sông tuổi
nhỏ
Vui buồn đời
lính 1 -
2 - 3
- 4 -
5
Ḍng
thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
Huyền
thoại chiến sĩ Mũ Xanh
Cuộc chiến
không dừng ở đây
Nỗi ḷng
biết ngỏ cùng ai?
Chiêu hồn Quái
Điễu
Thiên
hùng ca dựng một ngọn cờ
Thuận
An, hành quân triệt thoái
Thư t́nh viết muộn
Người lính miền Nam
Thăm lại Quảng
Trị – Khe Sanh & chiến sĩ vô danh
Hăy thắp cho
anh một ngọn đèn
Tôi đi lính...
Giờ phúc
sau cùng của người Trung Đội Trưởng
Đôi bờ chiến tuyến
Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Thoáng nhớ ngậm ngùi
Mối t́nh Sơn Khê
Hai anh em tên Cờ,
họ Việt Nam Cộng Ḥa
Hạt bụi vĩ đại
Thư Khu Bưu Chính (KBC)
Hai h́nh ảnh, một
cuộc đời
Vé Đây! Vé Đây!
Tháng
Ba buồn thiu, tháng Tư găy súng
Bà Mẹ
Quê
Ôm M60, M79 đánh ghen
Nghe Nhạc
Trang Thủy