Trang thơ Nguyễn Minh Châu
Thơ - Tuấn TT
Chùm thơ Đông Hương
Thơ - Huy Văn
Một vòng quay
Dư âm ĐH 2018
Khấn nguyện
Nỗi buồn người
ở lại
Mùa Thánh
Đông về...
Gọi tên đồng đội
Nhớ mày
43 năm trôi qua, 43
năm mòn mỏi đợi chờ
Ước mơ... Phá
Tam Giang
Huynh Đệ chi binh
Thu dĩ vãng
Quê hương ơi…?
Tìm mày …mình nằm chung
Ký ức Quận Tư
Về đâu
nhỉ…khi tôi chết?
Tôi sẽ chết
Một mình trên
căn gác
Nỗi buồn nín câm
Chùm khế ngọt
Nhiều đêm trăn
trở
Hành trang bỏ dở
Chiều thu
Hoài cổ
Màu cờ
Kỷ niệm 64 năm
sinh nhật BC/TQLC
Cho người yêu
dấu
Cổ Thành ơi !
Tiệc khao quân
Xin đừng hỏi tôi
Gửi hồn theo gió
Chuyện lạ nước nhà
Anh hùng
tử, khí hùng nào tử
Bên nầy bờ Đại
Dương
Thu chờ đợi
Cổ lai chinh chiến
Nếu có thể
Chinh phụ
Tiễn bạn
Thu buồn
Hoài cảm "Lính xa
nhà"
Mộng buồn
Hoài niệm
Năm mốt năm
Nhớ hè xưa
Tôi phải là tôi
Mùa hoa phượng
Gọi thầm
Thầm lặng
Ngàn năm mãi
tình chung
Phím rối
Đứng vùng lên
Nỗi buồn vong quốc
Nỗi ưu tư
Mộng tưởng
Trời mờ... mưa đêm
Mẹ
Những giọt lệ cho những tấm thẻ bài
Mày hỏi tao?
Nhớ thằng bạn cũ
Tấm hình rách
Ký Ức khó quên
Những dấu xuân xưa
Câu hỏi đầu xuân
Thắp lại ánh xuân
Chiến hữu của
tôi
Ký ức ngày gãy
súng
Nhớ ngày cũ
Trả tôi về
Xuân khuất đoá
mãn khai
Khóc mùa xuân
Mừng Mậu Tuất, nhớ Mậu
Thân
Mưa buồn
Mừng Xuân
Xuân trong
tiềm thức
Nỗi đau mẹ Việt Nam
Nhạn lạc bầy
Tuổi trẻ Việt Nam
Xuân nhớ đến Mẹ
Người Lính Già (Đại
Bàng Tango)
Mùa Giáng Sinh xưa
Nhớ về chốn cũ
Nhớ nhà (Nhớ ngày ấy)
Saigon của tôi
Tình sen
Mãnh Hổ “Tây Đô”
Ký Ức khó quên
(Ngày tàn cuộc chiến)
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Khi tôi chết
(Tâm sự người lính già)
Tìm phương giác
Gục đầu xuống
Đêm trăng nhớ
bạn
Người lính và
nỗi nhớ
Hương xưa của
tôi
Người lính VNCH
Huyền thoại mưa Sài Gòn
Vịt Tiềm
Thắp nhang cho
bạn
Tấm thẻ bài
Thăng trầm
Hoa nước mắt
Khi tôi đi
Độc ẩm
Nhìn đất mẹ
Nợ núi sông đã trả, chỉ còn nợ em
Tận cùng nỗi nhớ
Một câu hỏi
Một thoáng suy
tư
Mày hỏi tao
Bạc màu áo trận
Thơ - Đông Hương
1 - 2 -
3
Đồng đội
Quận Tư, xóm nhỏ
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Cảm xúc Tháng
Tư Đen
Nhớ Bạn tuổi thơ
Tháng Tư
hoài vọng
Nhớ Phá Tam
Giang
Khi cha già
cha sẽ về đâu??
Biển ấy, mùa này
Tháng Ba rồi ....
Một ngày và
một đời TQLC
Buồn như một sớm trời không nắng
Huế xa
rồi - Mai mốt về em nhé
Mê thư lính
Tình khúc
cho một người
Nỗi nhớ buồn hiu
Dìu nhau đi cho hết....
Chùm thơ Đông
Hương
Ta về
Ưu tư vận nước
Tưởng niệm 40 năm
Đêm ngủ tôi mơ
Tháng Tư
lại đến nữa rồi
Cái chết của một
tượng đá
Xuân Buồn
Anh sẽ đưa em về
Bức dư đồ
Tâm sự lính Mũ
Xanh
Ngồi xuống đây
Hãy nhặt gìum
cha
Xin giữ
Mây tháng Tư
Xuân xứ người
Lời cho này anh
Giấc mơ tương
lai
Cô giáo Tịnh Như
Nhớ Cao Xuân Huy
Bông hồng Hậu
Nghĩa
Anh đi...
Chiều trên quê nội
Nội tướng của tình
thương
30 tháng 4 - Sống và Chết
Với MX Sóng Thần một
thuở...
Tháng Tư đen
Tao nợ mầy...
Pho tượng người
lính...
Đôi nạng gỗ...
Tôi nợ anh...
Chùm thơ Áo Trắng
Nhớ một chiều Xuân
Thơ của Trần Khoa Danh
Tâm sự người Thương Binh
Nhà xưa đã khép
VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TÔI BA MƯƠI NĂM CHINH CHIẾN TRONG BIỂN MÁU VÀ
NƯỚC MẮT
VỚI NHỮNG CHẶNG ÐƯỜNG CHIẾN SỬ ÐAU THƯƠNG KHÔNG THỂ NÀO QUÊN
MX Trần Văn Hên
Theo dòng thời gian , những trang bi hùng sử ghi lại hành trình phát
triển của nhân loại , của từng quốc gia từng dân tộc , đã lần lượt
lật qua . Nhưng sự sang trang nầy không hẳn là mang ý nghĩa của một
sự xếp lại quá khứ , của một sự lãng quên vô cảm trong tâm thức của
mỗi một con người . Lịch sử lần lượt sang trang , nhưng những biến
cố , những chứng tích vẫn luôn hằn sâu trên từng trang chính sử ,
trong tâm thức của những chứng nhân .
Trong cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam kéo dài suốt 30 năm , từ năm
1945 đến năm 1975 , đã gây ra cho bao nhiêu triệu nhân mạng thương
vong và tàn phế. Có rất nhiều tài liệu lịch sử giá trị , ghi lại
những biến cố nghiêm trọng trong thời điểm cận đại trên đất nước
Việt Nam để tham khảo . Còn riêng trong những dòng bút ký nầy , chỉ
là một số tư liệu được sưu tập , tôi xin ghi lại một cách ngắn gọn
theo sự hiểu biết rất hạn hẹp của một cá nhân đã sinh ra , trưởng
thành và đã đi vào cuộc chiến .
Ðại gia đình Quân Ðội , một lực lượng quân sự nồng cốt bảo vệ Tổ
Quốc , trải qua một tiến trình hình thành từ năm 1945 đến 1954 là
Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam , từ năm 1954 đến năm 1975 là Quân Ðội
Việt Nam Cộng Hòa . Những thế hệ niên trưởng trước của chúng tôi ,
thế hệ chúng tôi nói chung , trong đó có các SVSQ Khóa 17 Võ Khoa
Thủ Ðức cùng những thế hệ tiếp theo sau . Chúng tôi là những chiến
binh tham chiếm bảo vệ đất nước , là chứng nhân trong những giai
đoạn khốc liệt của cuộc chiến và cũng là những nạn nhân bị bức tử
trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến xâm lược bằng vũ lực của
cộng sản Bắc Việt . Là quân nhân , dù ở trong giai đoạn nào , dù ở
nơi đâu , dù ở trong tình huống nào , chúng tôi vẫn là những người
con của dân tộc của Tổ Quốc , không là phương tiện của bất cứ một tổ
chức đảng phái chính trị nào . Ðời sống của chúng tôi , lập trường
của chúng tôi luôn gắn liền với Tổ Quốc , Danh Dự và Trách Nhiệm cho
đến hơi thở sau cùng , đây là điều tâm quyết đã được khẳng định .
Hiện tại , sau 40 năm bị bức tử , những vết hằn vẫn còn in đặm trên
lưng , những vết thương chiến tranh vẫn còn trên thân xác của người
chiến binh Việt Nam Cộng Hòa , quê hương vẫn còn bao phủ một bức màn
sắt ngục tù , dân tộc vẫn còn điêu linh quằn quại trong gông cùm
cộng sản . Chúng tôi có thể xác định một điều là cuộc chiến Việt Nam
vẫn còn tiếp diễn trên trận tuyến ý thức hệ với nhiều phương thức
được kết hợp và tiếp nối . Cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại đang
kết hợp với đồng bào ở quốc nội trong nổ lực đấu tranh xóa sổ thể
chế cộng sản , đang viết nên những trang chiến sử mới cho quê hương
. Thiết nghĩ trong thời điểm nầy , những thế hệ tiếp theo sau chúng
tôi , nên dành những giây phút tìm về những trang sử cũ , để hiểu
được những gì đã diễn biến , để thấy nguyên nhân nào đã đưa đất nước
Việt Nam vào một cuộc chiến đẵm máu suốt 30 năm , để thấy được chính
nghĩa của quân dân Miền Nam trong cuộc chiến đấu chống cộng sản bảo
vệ lãnh thổ , để hiểu được vì sao người Việt Nam phải rời quê hương
tha phương nơi xứ người . để biết rõ những đối tượng nào cần được
xác định . Dưới đây chỉ là những dòng bút ký lược cương ghi nhận một
số biến cố đã xảy ra trên quê hương , là những dấu ấn điêu linh đã
xảy ra trên sinh mệnh của dân tộc
Việt Nam . Mong sao các thế hệ trẻ sẽ tìm hiểu , tham khảo thêm trên
những tài liệu về chiến sử Việt Nam cận đại , để hiểu về những thế
hệ trước , để hiểu mình là ai dù đang mang quốc tịch nào trên những
vùng đất tạm dung và sẽ làm gì cho quê hương dân tộc Việt Nam .
A . CUỘC CHIẾN 30 NĂM TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 ÐẾN NĂM 1975 . MỘT CUỘC CỜ ÐỊNH MỆNH
Từ năm 1945 trên lãnh thổ Việt Nam chiến tranh vẫn tiếp diễn sau khi
cuộc chiến của Ðệ Nhi Thế Chiến kết thúc . Trong giai đoạn nầy ,
cuộc diện sinh hoạt cộng đồng trên thế giới có một sắc thái luôn đổi
màu theo từng thủ đọan chính trị , tùy thuộc vào lợi ích riêng biệt
của từng quốc gia . Một môi trường chính trị không có quốc gia nào
là kẻ thù vĩnh viễn , cũng không có quốc gia nào là một đồng minh
lâu dài . Trật tự thế giới đã được sắp xếp lại trong vùng ảnh hưỏng
của hai khối : Khối Tư Bản và Khối Cộng Sản .
Khối cộng sản phát động hong trào giải phóng và áp đặt chủ nghĩa
cộng sản lên các dân tộc da màu . Lãnh thổ Việt Nam trở thành một
bãi chiến trường trong cuộc chiến tranh lạnh , là một điểm trắc
nghiệm trong cuộc tranh chấp quyền lực giữa hai thế lực Tư Bản và
Cộng Sản . Tại sao không phải là lãnh thổ Lào , không phải là lãnh
thổ Cambodia hay là một quốc gia nào khác mà lại là Việt Nam ? Ðây
là một phương trình với rất nhiều ẩn số , có những ẩn số đến thời
điểm nầy chưa có đáp số minh bạch . Một cuộc cờ định mệnh đã được
bày ra trên mạng sống của dân tộc Việt Nam . Cuộc cờ nầy đã kéo dài
suốt 30 năm và trải qua nhiều giai đoạn trong chiến sử Việt Nam cận
đại .
Trong khoảng thời gian cuộc chiến Ðệ Nhị Thế Chiến chưa kết thúc .
Hồ Chi Minh đã được cộng sản Nga Sô đào tạo , lực lượng vũ trang của
cộng sản Việt Minh được Mao Trạch Ðông yểm trợ mọi mặt về lãnh vực
quân sự . Năm 1940 - lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ ( Deer Team ) giữ vai
trò huấn luyện đào tạo cán bộ nồng cốt , lực lượng vũ trang du kích
nầy là tiền thân của cộng sản Việt Nam . Ðây chính là mầm móng đầu
tiên mang thảm họa và bất hạnh cho dân tộc Việt Nam sau nầy .
I . GIAI ÐOẠN I TỪ NĂM 1945 ÐẾN NĂM 1954
Trong giai đoạn nầy :
1 . Lực lượng vũ trang cộng sản từ khu vực biên giới phía nam Trung
Hoa xâm nhập và bắt đầu hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam với chiêu
bài chống thực dân Pháp giành độc lập cho dân tộc . Lợi dụng lòng
yêu nước của toàn dân xây dụng lực lượng Việt Minh cộng sản , âm mưu
sát hại những thành phần kháng chiến quốc gia không cùng chủ trương
, thực chất lực lượng Việt Minh chỉ là tay sai cho cộng sản quốc tế
.
2 . Trên chiến trường trong thời điểm nầy , có hai lực lượng đối
kháng chính . Về phía cộng sản , trực diện tham chiến là lực lượng
Việt Minh , thế lực điều khiển phía sau mang tính quyết định chính
là Nga Sô và Trung Quốc . Về phía chánh quyền Pháp và chánh phủ Việt
Nam , trực diện tham chiến gồm có lực lượng Quân Ðội Viễn Chinh Pháp
và lực lượng Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam . Trong suốt 9 năm , chiến
tranh lan tràn khắp 3 miền lãnh thổ Việt Nam , dân chúng từ nông
thôn đến thành thị , đã phải gánh chịu nhiều thiệt hại về nhân mạng
và tài sản .
3 . Tháng 5 năm 1954 . Quân Ðội Pháp thất thủ trên chiến trường Ðiện
Biên Phủ . Hiệp Ðịnh
Genève được ký kết . Lực lượng Pháp triệt thối ra khỏi Việt Nam và
trao trả độc lập cho 3 quốc gia : Việt Nam , Lào và Cambodia . Hiện
trạng trên lãnh thổ Việt Nam : Ván cờ thứ nhất đã kết thúc .
4 . Ngày 20 tháng 7 năm 1954 : Hiệp Ðịnh Genève ký kết . Ðây là một
cuộc mặc cả quyền lợi giữa những thế lực siêu cường . Họ đã bức tử
dân tộc Việt Nam . Lãnh thổ Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17 .
Sông Bến Hải và cầu Hiền Lương làranh giới lãnh thổ của hai thể chế
: Miền Nam với thể chế Dân Chủ Tự Do , Miền Bắc với thể chế Cộng Sản
Xã Hội chủ nghĩa . Ðiểm quan trọng nhất ở vào thời điểm cuối của
giai đoạn nầy là vai trò tay sai của Việt Minh cộng sản đã được hợp
thức hóa trên lãnh thổ Việt Nam . Cộng sản quốc tế đã thành công ở
bước đầu trong sách lược nhuộm đỏ khu vực Á Châu về phía Nam . Trên
lãnh thổ Miền Bắc , cộng sản Việt Minh hiện nguyên hình thành một
loài quỷ đỏ . Cư dân miền Bắc rời bỏ thôn làng chạy trốn cộng sản
tìm về khu vực Hà Nội , Hải Phòng để di cư vào miền Nam . Cộng sản
Bắc Việt tập trung lực lượng ngăn chận làn sóng di cư . Cuối cùng
khoảng một triệu cư dân miền Bắc di cư an toàn vào miền Nam . Ngoài
trừ những cán binh cộng sản phải tập kết ra miền Bắc , không có cư
dân miền Nam di cư ra miền Bắc . Ðiều nầy cho thấy chủ thuyết cộng
sản không có sức thuyết phục trong lòng quần chúng cả hai miền Nam
và Bắc .
II . GIAI ÐOẠN II TỪ NĂM 1954 ÐẾN NĂM 1963
Trước năm 1954 và sau năm 1954 – Theo sử liệu còn lưu lại – Cho thấy
tất cả mọi sự biến chuyển trên lãnh thổ Việt Nam đều có sự can dự và
chi phối bời một số thế lực siêu cường trên thế giới . Ðấy cũng là
vận mệnh chung của các quốc gia nhược tiểu . Trên thế giới nầy , các
nước nhược tiểu chỉ là thân phận của những quân cờ , sống hay chết ,
tồn tại hay suy vong là tùy vào thế cờ không đạo đức , vô liêm sĩ ,
không nhân bản của các nước siêu cường …
Sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 . Hiệp Ðịnh Genève bắt đầu thực thi :
Lãnh thổ Việt Nam bị phân chia thành 2 quốc gia với 2 thể chế đối
nghịch . Ðây là một biến cố đau thương lẫn uất hận . Dân tộc Việt
Nam không bao giờ muốn , nhưng nó đã xảy ra trong thực tế . Chánh
Phủ Hoa Kỳ thay thế vị trí của Chánh Phủ Pháp trên bàn cờ Việt Nam .
THỂ CHẾ CỘNG SẢN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA MIỀN BẮC
1 . Cộng sản Bắc Việt có khuynh hướng áp đặt theo cái khung của cộng
sản Trung Cộng. Cho nên luôn mang tham vọng điên cuồng sắt máu .
Chính thể cộng sản Bắc Việt đã đưa đời sống dân chúng miền Bắc vào
cảnh địa ngục , lo âu , sợ hải , đói khổ , chết chốc bởi những chánh
sách khắc nghiệt : cải cách ruộng đất , đấu tố tiêu diệt giới tư sản
tư bản , thủ tiêu những thành phành phần bất đồng chính kiến , tiêu
diệt những thành phần không chấp nhận chế độ cộng sản , cải tạo tư
tưởng quần chúng . Riêng về chánh sách cải cách ruộng đất và tiêu
diệt thành phần địa chủ tư sản . Cộng sản Bắc Việt chia ra làm 2 đợt
cải cách , sát hại trên 200.000 người dân vô tội . Ðợt thứ 1 từ năm
1952 đến năm 1953 : ở những vùng do cộng sản Việt Minh kiểm soát ,
dưới sự điều động của Hoàng Quốc Việt . Ðợt thứ 2 từ năm 1955 đến
năm 1956 : trên toàn lãnh thổ miền Bắc, dưới sự điều động của Trường
Chinh .
2 . Từ tháng 6 năm 1955 . Cộng Sản Bắc Việt đi dây giữa Nga Sô và
Trung Cộng để tìm nguồn yểm trợ quân sự . Chuẩn bị cho cuộc chiến
xâm chiếm miền Nam Việt Nam , tiếp tục công cuộc
“ Trường Kỳ Kháng Chiến “ như đã thực hiện ở những giai đoạn trước .
Ðây chính là nguyên nhân sẽ đưa cả hai miền đất nước vào một cuộc
chiến tương tàn kế tiếp sau Hiệp Ðịnh Genève . Một thế cờ mới được
bày ra trong cuộc cờ định mệnh từ các siêu cường , dân tộc Việt Nam
tiếp tục làm những quân cờ , Việt Nam lại trải qua những tháng năm
dài đẳm máu và nước mắt .
3 . Song song với chiến dịch vận động yểm trợ với Khối Cộng Sản Quốc
Tế . Cộng sản Bắc Việt chỉ thị cho các lực lượng khoảng 60.000 cán
binh đã gài lại miền Nam khi tập kết , khởi động cuộc chiến tại Miền
Nam từ năm 1955 . Dưới nhiều hình thức đã từng áp dụng trong thời
Pháp thuộc . Du kích cộng sản kiểm soát được một số thôn làng hẻo
lánh để làm địa bàn hoạt động dưới hình thức “ tiêu thổ kháng chiến
“ . Thiết lập hệ thống tiền phương trên lãnh thổ Lào và Cao Miên .
Không tuân thủ Hiệp Ðịnh Genève vượt khu phi quân sự . Dùng đường
biên giới dọc theo dãy Truờng Sơn , sử dụng dân công chuyển vận thực
phẩm , vũ khí , quân dụng vào dự trử ở các mật khu trên lãnh thổ
Miền Nam . Mở rộng các mật khu , xây dựng cơ sở hậu cần . Từng đoàn
quân chánh quy Bắc Việt xâm nhập lãnh thổ Miền Nam tiềm phục trong
các mật khu để chuẩn bị mở rộng chiến trường .
4 . Tháng 5 năm 1959 – Cộng Sản Bắc Việt thành lập Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam ( National Liberation Front – NLF ) trên lãnh thổ
Miền Nam , dưới sự chỉ huy trực tiếp của Lê Duẩn . Vào thời điểm nầy
, lực lượng cộng sản hiện diện ở Miền Nam lên đến con số gần 200.000
.. Bắt đầu mở những đợt tấn công đồn bót và cơ quan chánh quyền ,
chuyển dần từ du kích chiến sang trận địa chiến Một số trí thức cùng
một số chức sắc các tôn giáo Miền Nam tham gia Mặt Trận Giải Phóng .
Tạo thêm một tình thế bất an cho dân chúng và gây nhiều khó khăn về
mặt chính trị cho Chánh Quyền Miền Nam .
THỂ CHẾ VIỆT NAM CỘNG HÒA MIỀN NAM THÀNH LẬP NỀN ÐỆ NHẤT CỘNG HÒA
1 . Tháng 6 năm 1954 – Theo sự đề cử của Quốc Trưởng Bảo Ðại – Chí
sĩ Ngô Ðình Diệm từ Hoa Kỳ trở về Việt Nam – Ðảm nhận chức vụ Thủ
Tướng thành lập tân Chánh Phủ của Việt Nam Cộng Hòa . Tháng 7 năm
1955 – Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm từ chối hiệp thương với cộng sản Bắc
Việt về việc tổng tuyển cử để đi đến thống nhất đất nước theo Hiệp
Ðịnh Genève , vì Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm cho là cộng sản Bắc Việt
không bao giờ để cho dân chúng Miền Bắc được tự do bầu cử .
2 . Ngày 23 tháng 10 năm 1955 – Theo đề nghị của Hội Ðồng Cách Mạng
Quốc Gia . Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm cho mở cuộc Trưng Cầu Dân Ý để
người dân trực tiếp chọn người lãnh đạo quốc gia . Kết quả sau cùng
cuộc trưng cầu dân ý của Người Việt Quốc Gia . Theo ý nguyện của
toàn dân : Truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại . Ðánh dấu chế độ quân chủ
phong kiến chấm dứt trên đất nước Việt Nam . Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm
được mọi người dân tín nhiệm . Trở thành vị Tổng Thống đầu tiên của
Miền Nam Việt Nam .
3 . Ngày 26 tháng 10 năm 1955 . Theo ý nguyện của dân chúng là chấm
dứt thời quân chủ phong kiến và bắt đầu xây dựng một thể chế Dân Chủ
Tự Do và Ðộc Lập trên nền tảng : Thể chế Dân Chủ Lập Hiến . Tam
Quyền Phân Lập . Dân Chủ Ða Nguyên . Tôn Trọng Nhân Quyền Theo Quốc
Tế Công Pháp . Công Bằng , Nhân Ái … Ngay sau khi tuyên thệ nhậän
chức vụ – Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã long trọng tuyên bố : Miền Nam
Việt Nam là một Quốc Gia Ðộc Lập và toàn vẹn lãnh thổ với danh xưng
: VIỆT NAM CỘNG HÒA . Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam chuyển đổi danh
xưng là øQUÂN ÐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA . Chế độ Quân Chủ Phong Kiến
chấm dứt sau 23 năm dưới sự cầm quyền của Hoàng Ðế Bảo Ðại . Theo
hiến định , Tổng Thống Ngô Ðình Diệm kiêm nhiệm Tổng Tư Lệnh của
Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa . Ðể đối ứng theo tình thế – Song hành
với việc thành lập thể chế chính trị , giải tán các lực lượng vũ
trang – Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã nhanh chóng xây dựng và canh tân
lực lượng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa theo tiêu chuẩn tổ chức quân
đội của các quốc gia tân tiến trên thế giới . Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm cho xúc tiến đến việc thành lập Quốc Hội Lập Hiến do dân cử để
soạn thảo Hiến Pháp Cộng Hòa . Kể từ ngày 23 tháng 10 năm 1955 –
Người dân miền Nam được xử dùng lá phiếu của mình bầu chọn người
lãnh đạo quốc gia và các dân biểu của Quốc Hội . Ðể xác định tinh
thần dân chủ của thể chế Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam .
4 . Ngày 15 tháng 3 năm 1956 – Kết quả của cuộc bầu cử của dân chúng
để chọn người đại diện trong toà nhà Quốc Hội được công phổ . Có tất
cả 132 Dân Biểu Quốc Hội đại diện toàn thể dân chúng Miền Nam tham
gia sinh hoạt chính trị trong vai trò Lập Pháp . Soạn thảo Hiến Pháp
và các Luật Ðịnh của chính thể Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam .
5 . Sau tháng 3 năm 1956 – Trên nền tảng căn bản – Tổng Thống Ngô
Ðình diệm đã hoàn tất giai đoạn đầu , cũng là giai đoạn trọng yếu
nhất là xác lập “ Thể Chế Chính Trị “ của Quốc Gia . Ðể làm nền tảng
với việc đối nội là điều hành đất nước và cả với lãnh vực đối ngoại
trên chính trường thế giới . Về Tam Quyền Phân Lập . Hành Pháp :
Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa . Lập Pháp : Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa
. Tư Pháp : Hệ Thống Tòa Án Việt Nam Cộng Hòa . Thi hành luật pháp
quốc gia . Tất cả quyền hạn của từng bộ phận được phân định biệt lập
rõ ràng . Chấm dứt những đặc quyền chuyên chế của thời quân chủ
phong kiến . Từ nền tảng căn bản đã hình thành . Chánh Phủ Việt Nam
Cộng Hòa từng bước cải tổ , xây dựng để đi đến hoàn chỉnh . Dĩ nhiên
là chặng đường trước mặt với bao chong gai sóng gió đang chờ . Làm
sao để lèo lái con thuyền dân tộc vượt qua bảo tố … Ðó là những vấn
đề cần đến tài năng , quả cảm và tấm lòng nhân ái hy sinh của người
lãnh đạo . Ðắc nhân tâm là chìa khóa để mở những cánh cửa ngăn cách
, để giải quyết những biến cố trong đại .
6 . Tháng 6 năm 1956 . Phó Tổng Thống Hoa Kỳ là Richard Nixon thăm
viếng Miền Nam Việt Nam . Ðây là một biểu tượng mối bang giao giữa
Chánh Phủ Hoa Kỳ và Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam : Xác định Chánh Phủ
Hoa Kỳ ủng hộ Chánh Phủ của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa . Xác định lại
chương trình viện trợ trực tiếp của Chánh Phủ Hoa Kỳ để giúp cho
Chánh Phủ Cộng Hòa tái thiết miền Nam Việt Nam . Xác định sự hiện
diện của các cố vấn Hoa Kỳ trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam . Ðây là
dấu hiệu cho thấy Chánh Phủ Hoa Kỳ đang đặt bước chân đầu tiên để
chánh thức hóa trên lãnh vực bang giao . Cũng là một thời điểm Chánh
Phủ Hoa Kỳ đang từng bước đi vào sinh hoạt nội bộ chính trị của Miền
Nam Việt Nam .
7 . Thời gian từ năm 1945 đến năm 1954 - Lãnh thổ miền Nam bị tàn
phá bởi cuộc chiến giữa lực lượng Quân Ðội Pháp và cộng sản Việt
Minh . Hầu hết những vùng nông thôn bị cộng sản Việt Minh nắm quyền
kiểm soát , người dân phải bỏ tất cả ruộng vườn trốn thoát ra vùng
quốc gia kiểm soát .
Sau năm 1954 hồi cư về lại thôn làng cũ , mọi sự phải làm lại từ đầu
. Trước những nỗi khó khăn của dân chúng vùng nông thôn . Chánh Phủ
Việt Nam Cộng Hòa dồn nổ lực tái thiết và phát triển nông thôn để
đời sống của dân chúng được sớm ổn định .
QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA CHIẾN ÐẤU BẢO VỆ MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ NĂM
1954 ÐẾN NĂM 1963
Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa nhận lãnh trọng trách bảo vệ toàn lãnh
thổ Miền Nam Việt Nam .
1 . Trong năm 1955 – Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa được điều động để
giải giới các lực lượng vũ trang của các Tôn Giáo và lực lượng vũ
trang Bình Xuyên .
2 . Từ năm 1956 – Lực lượng cộng sản được gài lại Miền Nam bắt đầu
hoạt động trở lại . Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa phối hợp với các lực
lượng Dân Quân địa phương mở những cuộc hành quân truy kích bảo vệ
thôn làng , đẩy lui hoạt động của cộng sản ra khỏi đời sống của dân
chúng . Công trình Ấp Chiến Lược ở các địa phương đã giúp cho Quân
Ðội Việt Nam Cộng Hòa cùng các chánh quyền địa phương , kiểm soát và
bảo vệ lãnh thổ một cách hữu hiệu .
3 . Từ năm 1956 đến năm 1959 – Các hoạt động cộng sản xuất hiện ở
nhiều thôn làng địa phương . Những hoạt động của cộng sản trong giai
đoạn nầy thường là hình thức du kích , phá hoại , hoặc tấn công đồn
bót , đốt phá các cơ quan hành chánh địa phương với một lực lượng
nhỏ .
4 . Từ Năm 1960 – Tình hình chiến sự ở Miền Nam bắt đầu chuyển đổi
hình thức chiến thuật và gia tăng cường độ tấn công trên nhiều khu
vực trọng yếu . Từ hoạt động bí mật , du kích lúc ban đầu chuyển dần
sang hoạt động công khai vận động chiến với các thành phần đơn vị
chánh quy của bộ đội Bắc Việt . Kết hợp cả hai chiến thuật du kích
chiến và trận địa chiến . Ðể đối ứng với tình hình chiến sự trên
thực tế – Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa mở những cuộc hành quân quy mô
với sự phối hợp tác chiến hữu hiệu của nhiều quân binh chủng truy
kích và tiêu diệt lực lượng quân sự chánh quy của cộng sản . Cộng
sản Bắc Việt đã công khai ý đồ xâm chiếm Miền Nam với lực lượng
chánh quy , nhưng không mặc sắc phục bộ đội mà thường ngụy trang
dưới lớp áo du kích địa phương .
6 . Từ năm 1962 – Cộng sản Bắc Việt bắt đầu đưa vào chiến trường
Miền Nam những lực lượng tấn công từ cấp đại đội đến cấp tiểu đoàn
với vũ khí mới được viện trợ từ Trung Cộng . Ðể bình định nông thôn
và bảo vệ an ninh cho các tỉnh thành . Các lực lượng quân sự của
Việt Nam Cộng Hòa từ chủ lực quân , địa phương quân , nghĩa quân đã
kếp hợp điều phối với các quân binh chủng trên khắp các chiến trường
, trên mọi lãnh vực sinh hoạt để bảo vệ đời sống của dân chúng Miền
Nam .
NHỮNG BIẾN CỐ QUAN TRỌNG ÐƯA ÐẾN SỰ SỤP ÐỔ NỀN ÐỆ NHẤT CỘNG HÒA NĂM
1963
1 . Những chính biến đã làm sụp đổ Chính Phủ của nền Ðệ Nhất Việt
Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm . Có thể
ghi nhận tổng lược qua 2 lãnh vực và qua nhiều đối tượng . Lãnh vực
ngoại vi gồm có các đối tượng : Chánh Phủ Hoa Kỳ. Cộng Sản Quốc Tế
và Cộng Sản Bắc Việt . Lãnh vực nội bộ gồm có các đối tượng : Ðảng
phái chính trị quốc gia bất đồng chính kiến . Thành phần tôn giáo do
cộng sản xách động . Thành phần quân nhân chống đối . Thành
phần dân chúng bất mãn chế độ .
2 . Có những biến cố quan trọng đã xảy ra :
. Tháng 11 năm 1960 : Cuộc đảo chánh bao vây Dinh Ðộc Lập của một
đơn vị Nhảy Dù .
. Tháng 2 năm 1962 : Cuộc ném bôm Dinh Ðộc Lập .
. Tháng 5 năm 1963 : Phong trào Phật Giáo xuống đường ở Huế và Sài
Gòn .
. Tháng 11 năm 1963 : Cuộc đảo chánh của Quân Ðội . Tổng Thống Ngô
Ðình Diệm và ông Ngô Ðình Nhu bị hạ sát . Nền Ðệ Nhất Cộng Hòa chấm
dứt . Thành phần tham dự vào cuộc đảo chánh , có thể xác định như
sau :
* Về phía Hội Ðồng Cách Mạng . Trực tiếp lên kế hoạch và điều khiển
: Tướng Dương Văn Minh , Tướng Trần Thiện Khiêm , Tướng Trần Văn Ðôn
, Tướng Lê Văn Kim , Tướng Nguyễn Khánh , Ðại Tá Nguyễn Văn Thiệu .
Ngoài ra còn có sự hợp tác của một số sĩ quan cao cấp khác ở vai trò
thứ yếu
* Về phía Chánh Phủ Hoa Kỳ . Thành phần đại diện Chánh Phủ Hoa Kỳ
trực tiếp tiếp xúc với Hội Cách Mạng ở Sài Gòn : Frederick E .
Nolting , Henry Cabot Lodge , Roger Hilsman , Lucien Conein , Mc
Namara . Thành phần điều khiển và quyết định : Tổng thống Kennedy
cùng một số cố vấn trong
Chánh Phủ Hoa Kỳ . William Colby – Director của CIA xác định : “
This was a Vietnamese generals’ coup , yes , but I think the
fundamentals of it were decided in our White house “ .
* Ngày 1 tháng 11 năm 1963 :
- Sáng ngày 1 tháng 11 : Lưc lượng đảo chánh chiếm giữ Dinh Gia Long
, Dinh Ðộc Lập , Phủ Thủ Tướng và Thành Cộng Hòa .
- Khoảng 12 giờ trưa cùng ngày – Ðài phát thanh Sài Gòn đọc tuyên
cáo của Hội Ðồng Cách Mạng là cuộc đảo chánh đã hoàn tất . Các lực
lượng Quân Ðội đã làm chủ tình hình . Ðồng thời phát lời kêu gọi tất
cả các quân binh chủng thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hưởng ứng
hợp tác với Hội Ðồng Cách Mạng .
- Một số thành viên trong chánh phủ đương nhiệm bị quản thúc trong
dinh Ðộc Lập . Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và ông Ngô Ðình Nhu đã rời
khỏi Dinh Ðộc Lập .
* Ngày 2 tháng 11 năm 1963 . Lúc 3 giờ 30 sáng . Một cuộc tiếp xúc
thương lượng trong một khoảng thời gian rất ngắn diễn ra giữa nhóm
người đại diện Hội Ðồng Cách Mạng với Tổng Thống Ngô Ðình Diệm . Sau
đó Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và ông Ngô Ðình Nhu bị lực lượng đảo
chánh dùng vũ lực bắt giữ ở nhà Thờ Cha Tam thuộc khu vực Chợ Lớn .
Cả hai được đưa lên một chiếc thiết vận xa M.113 di chuyển về Bộ
Tổng Tham Mưu và đã bị hạ sát một cách bí ẩn . Thiết nghĩ đây là một
hành động sai lầm rất nghiêm trọng .
3 . Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 – Là một biến cố mang
nhiều ẩn số phức tạp . Có rất nhiều tài liệu ghi lại sự kiện . Diễn
tiến của sự việc được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau , nên phần
nhận định cũng mang nhiều khuynh hướng . Chỉ có những nhân vật lãnh
đạo gây nên cuộc chánh biến nầy mới có thể giải đáp sự thật trước
lịch sử của dân tộc . Từ thời điểm xảy ra biến cố cho đến hôm nay
trên 50 năm . Vận mệnh đất nước Việt Nam cũng đã trải qua bao biến
cố thăng trầm nghiệt ngã . Phải đối đầu với bao biến chuyển tiếp
theo sau ngày xảy ra biến cố , hầu như ít ai còn nghĩ đến . Trong
tâm thức mỗi con người có thể lãng quên . Nhưng trên dòng lịch sử
của dân tộc
thì biến cố nầy cần được ghi lại một cách trung thực . Ðem “ sự thật
‘ về lại với lịch sử . Trả lại “ sự công bằng “ cho người trong cuộc
. Những tác nhân tạo nên biến cố nầy cần được minh định rõ ràng .
Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ không phải là thực lực đồng
thuận làm nên cuộc đảo chánh . Thiết nghĩ “ Hội Ðồng Tướng Lãnh “ đã
đưa Miền Nam Việt Nam vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm không thể
lường trước hậu quả … Ngày 22 tháng 11 năm 1963 – Tổng Thống Kennedy
bị ám sát tại Dallas – Texas … Sau cái chết của Tổng Thống Kennedy
có nguồn dư luận cho đó là một sự hệ lụy trên “ Nhân Quả Nhãn Tiền “
.
III . GIAI ÐOẠN III TỪ NĂM 1964 ÐẾN NĂM 1971
1 . TÌNH HÌNH GIAI ÐOẠN CHUYỂN TIẾP NĂM 1964 – 1967
Kể từ Ngày 1 tháng 11 năm 1963 đến Ngày 30 tháng 10 năm 1967 - Có
thể ghi nhận đây là khoảng thời gian chuyển tiếp , giữa Nền Ðệ Nhất
Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Nền Ðệ Nhị
Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu . Trong
giai đoạn chuyển tiếp nầy , trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam phải
nhận chịu những biến động dồn dập , từng bước đưa thể chế Việt Nam
Cộng Hòa Miền Nam vào những khúc quanh đen tối . Tất cả các nguyên
nhân sinh ra những biến cố cho thể chế Miền Nam đều đã phát xuất từ
hai lãnh vực : Lãnh vực nội bộ của Chánh Phủ Miền Nam . Lãnh vực
ngoại quan từ những thế lực các cường quốc bên ngoài .
Có thể ghi nhận những điểm chính yếu trên một số lãnh vực sinh hoạt
nội bộ :
. HỘI ÐỒNG TƯỚNG LÃNH : Một thành phần được xem là nồng cốt , đang
cố nắm giữ vai trò lãnh đạo điều hành sinh hoạt của thể chế Miền Nam
. Nhưng đã phạm nhiều lỗi lầm nghiêm trọng : Ðó là những cuộc chỉnh
lý tranh chấp quyền lực nội bộ, tạo nên những biến cố chính trị hoàn
toàn không thuận lợi cho hiện tình xây dựng lãnh thổ Miền Nam . Hội
Ðồng Cách Mạng của các tướng lãnh Quân Ðội bắt đầu đưa vận mệnh đất
nước Miền Nam đi trên một lộ trình “ Quân Ðội điều hành đất nước “
với nhiều mâu thuẩn nội bộ , tạo ra nhiều bất trắc trong kế sách
điều hành một quốc gia .
1 . Kể từ ngày 1 tháng 11 năm 1963 . Sau vài tuần lễ ổn định nội bộ
. Hồi Ðồng Tướng Lãnh lên phương án trao quyền điều hành đất nước
cho một chánh phủ dân sự . Nên đã mời một số trí thức nhân sĩ Người
Việt Quốc Gia tham chính để thành lập một tân chánh phủ dân sự .
Nhưng tân chánh phủ dân sự đã không duy trì được lâu vì có những
tranh chấp quyền lực , không được sự đồng thuận trong nội bộ Hội
Ðồng Tướng Lãnh .
2 . Vào tháng 1 năm 1964 . Tướng Nguyễn Khánh tạo áp lực lên Hội
Ðồng Tướng Lãnh , thành công trong một cuộc chỉnh lý nội bộ . Ðứng
ra nắm giữ vai trò Thủ Tướng và thành lập tân nội các . Cuộc chỉnh
lý nầy dĩ nhiên là có sự hậu thuẩn của Chánh Phủ Hoa Kỳ . Có thể nói
đây là bước khởi đầu Chánh Phủ Hoa Kỳ áp đặt sách lược mới vào nội
tình sinh hoạt chính trị của Miền Nam Việt Nam . Trong thời điểm nầy
Hội Ðồng Tướng Lãnh vẫn còn duy trì với vai trò điều hành về mặt
quân sự và giám sát tổng quát sinh hoạt điều hành . Tướng Nguyễn Cao
Kỳ giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương . Thủ Tướng
Nguyễn Khánh và tân nội các đương nhiệm tuy có sự ủng hộ mạnh mẽ của
Chánh Phủ Hoa Kỳ ở phía sau . Nhưng đã gặp những bất đồng và tranh
chấp quyền hạn nội bộ với Hội Ðồng Tướng Lãnh . Nên cuối năm 1964
Hội Ðồng Cách Mạng Quốc Gia quyết định mở một cuộc hội nghị mang
tính cách chiến lược về việc điều hành thể chế chính trị của Miền
Nam Việt Nam tại Vũng Tàu . Một bản Hiến Chương được thành lập xác
định nguồn máy lãnh đạo . Sau ngày công bố Bản Hiến Chương Vũng Tàu
. Tướng Dương Văn Minh rời vai trò lãnh đạo Hội Ðồng Cách Mạng Quốc
Gia và xuất ngoại . Tướng Nguyễn Văn Thiệu thay thế . Tướng Nguyễn
Cao Kỳ vẫn giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương .
3 . Ngày 20 tháng 2 năm 1965 . Thủ đô Sài Gòn có một cuộc biến động
. Một số đơn vị Quân Ðội được điều động về ven đô Sài Gòn . Một cuộc
chỉnh lý diễn tiến . Thủ Tướng Nguyễn Khánh phải từ chức thoái vị ,
chấm dứt quyền lực , sau cùng rời Việt Nam sống lưu vong . Nguồn máy
chính trị của Miền Nam được triển khai và điều hành dưới quyền lực
của Hội Ðồng Lãnh Ðạo Quốc Gia . Ðứng đầu là Tướng Nguyễn Văn Thiệu
và Tướng Nguyễn Cao Kỳ . Ðến tháng 6 năm 1965 . Tướng Nguyễn Cao Kỳ
được đề cử giữ chức vụ Thủ Tướng Miền Nam Việt Nam .
. CÁC ÐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ : Ðây là một sự tập hợp những tinh hoa của
dân tộc , đã tận tụy tranh đấu hy sinh bao nhiêu xương máu cho nền
độc lập của dân tộc từ thời Pháp thuộc . Trong thời điểm nầy những
bậc nhân sĩ , những nhà trí thức , những nhân vật thuộc về chính
giới vẫn có đủ tiềm năng lãnh đạo Miền Nam . Nhưng không được sự hổ
trợ của lực lượng quân sự nên không có hậu thuẩn . Một điểm khác là
trong các đảng phái chính trị đương thời cũng có sự tranh giành ảnh
hưởng chính trị trong quần chúng , thiếu sự đoàn kết trên tinh thần
dân tộc đã dẫn đến sự suy giảm tiềm năng . Ðồng thời cộng sản Bắc
Việt đã cài người vào các đảng phái chính trị Miền Nam , đánh phá hệ
thống tổ chức , xách động chống đối và bất hợp tác chánh phủ đường
thời , tạo nên tình huống lũng đoạn chính trị .
. CÁC TÔN GIÁO : Có nhiều biến cố đã và đang xảy ra cho thấy rất rõ
là có một hiện tượng : “ tôn giáo đã có những hành động từng bước
tách rời sinh hoạt tôn giáo thuần túy để đi vào lãnh vực chính trị”
, với những nguyên nhân không chính đáng cùng những mục đích xách
động đánh phá hơn là xây dựng . Cần phải có cái nhìn xác thực :
những thành phần tôn giáo đã và đang tham gia xuống đường , đánh phá
trên đường phố , kêu gọi chống đối chánh phủ , họ không phải là
thành phần đại diện cho các giáo hội tôn giáo chính thống trên lãnh
thổ Miền Nam , những hành động nầy không phải là nguyện vọng của
giáo hội hay của cộng đồng tín đồ . Qua những biến cố nghiêm trọng
có liên quan đến sinh hoạt tôn giáo ở một số thành phố trên lãnh thổ
Miền Nam , tiêu biểu như : Thành Phố Huế, Thành Phố Ðà Nẳng , Thành
Phố Quảng Ngải ở Miền Trung và Thành Phố Sài Gòn ở Miền Nam . Chính
đây là một môi trường rất thuận lợi cho sinh hoạt chính trị của cộng
sản Bắc Việt , dễ dàng xâm nhập và cài đặt nhân sự . Riêng về chánh
quyền địa phương của Miền Nam đã gặp nhiều khó khăn khi ứng xử với
lực lượng chống đối vì lý do tôn trọng sinh hoạt của tôn giáo . Nên
khi ngăn chận giải tán những cuộc xuống đường bạo động để duy trì an
ninh trật tự trên đường phố , thì bị dư luận tuyên truyền trong quần
chúng là Chánh Phủ Miền Nam đã đàn áp tôn giáo .
. NHỮNG ÐIỂM QUAN YẾU . Trong giai đoạn chuyển tiếp từ tháng 11 năm
1963 đến năm 1967 . Có những vấn đề trọng yếu liên quan đến tình
hình trên lãnh thổ Việt Nam :
1 . Cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Cộng Sản Bắc Việt trên lãnh thổ Bắc
Việt sau khi Khu Trục Hạm
Trang . 10
USS Maddox bị tấn công ở ngoài khơi Vịnh Bắc Việt vào ngày 2 tháng 8
năm 1964 .
2 . Các Lực Lượng Ðồng Minh lần lượt đến Miền Nam Việt Nam tham
chiến giúp Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa chống lực lượng cộng sản xâm
lược gồm có : Quân Ðội Hoa Kỳ , Quân Ðội Úc Ðại Lợi , Quân Ðội Tân
Tây Lan , Quân Ðội Nam Triều Tiên , Quân Ðội Thái Lan .
3 . Trong vấn đề bang giao giữa Chánh Phủ Hoa Kỳ và Chánh Phủ Việt
Nam Cộng Hòa có nhiều biến chuyển hoàn toàn không thuận lợi cho thể
chế Miền Nam Việt Nam . Chánh Phủ Hoa Kỳ đã đi sâu vào sinh hoạt nội
bộ chính trị của thể chế Miền Nam .
4 . Lực Lượng Cộng Sản Bắc Việt chiếm giữ và kiểm soát một số khu
vực nông thôn trên lãnh thổ Miền Nam . Vào thời điểm năm 1966 lực
lượng cộng sản hoạt động trên chiến trường Miền Nam lên đến con số
khoảng 300.000 cán binh . Gồm có các lực lượng bộ đội chính quy ,
lực lượng bộ đội địa phương và du kích địa phương .
5 . Tháng 1 năm 1965 . Có hai sự kiện liên quan với nhau . Cuộc mật
đàm giữa Thủ Tướng Nga Sô Kosygin và Hồ Chí Minh ở Hà Nội . Tháng 6
năm 1967 : Cuộc mật đàm giữa Thủ Tướng Nga Sô Kosygin và Tổng Thống
Hoa Kỳ Johnson . Họ đã bàn gì , quyết định gì về vấn đề hòa bình cho
dân tộc Việt Nam ?
2 . TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ TRONG GIAI ÐOẠN CHUYỂN TIẾP
* TRÊN LÃNH THỔ MIỀN NAM
1 . Lực lượng quân đội Ðồng Minh và quân đội Hoa Kỳ được phân chia
khu vực trách nhiệm , phối trí trên các trọng điểm chiến thuật .
Liên quân Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ triển khai những cuộc hành
quân qui mô tấn công phá hủy một số mật khu quan trọng trên 4 Vùng
Chiến Thuật . Những trận chiến ác liệt trong cuộc hành quân Junction
City ở chiến khu C , chiến khu D , ở thung lũng Ia Drang , ở vùng
châu thổ sông Cửu Long … gây cho lực lượng cộng sản Bắc Việt thiệt
hai nặng nề về nhân mạng và chiến cụ .
2 . Tháng 3 năm 1965 . Ðặc công cộng sản đặt bôm phá hoại toà nhà
Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn , gây tổn thất nghiêm trọng . Cộng sản gia
tăng mức độ khủng bố ở các thành phố lớn . Nhất là Thủ đô Sài Gòn ,
mục tiêu khủng bố là những nơi giải trí công cộng , các cơ quan
chánh quyền , các cơ sở của Chánh Phủ Hoa Kỳ và người Hoa Kỳ . Trong
năm 1964 và năm 1965 đặc công cộng sản đặt bôm phá hoại ở những địa
điểm : 1 . Metropole Hotel – 2 . Cộng Hòa Stadium – 3 . Natonal
Police Headquarters – 4 . My Canh Restaurant – 5 . US Embassy – 6 .
Brink Hotel – 7 . Caravelle Hotel – 8 . AUS Naval Vessel . Trong khu
vực Sài Gòn . Trên chiến trường ở Miền Nam lực lượng cộng sản bắt
đầu triển khai những trận đánh kết hợp giữa trận địa chiến , trận
địa pháo và biển người .
3 . Cuộc chiến xâm lược Miền Nam Việt Nam không còn mang hình thái
nội chiến giữa hai miền Nam và Bắc . Nó đang hiện rõ dần hình thái
của cuộc chiến giữa Khối Cộng Sản và Khối Tự Do Dân Chủ đã tiềm ẩn
từ lâu . Ðất nước Việt Nam đã điêu tàn trong cơn binh lửa . Người
dân Việt Nam sống trên cả hai miền Nam Bắc đều là những người bất
hạnh , đều là những người thua cuộc và phải trả giá bằng máu xương
và nước mắt một cách vô nghĩa không cần thiết . Cuộc chiến nầy sẽ
đến bao giờ mới kết thúc ? Sẽ kết thúc như thế nào ? Ai sẽ là người
thắng cuộc ? Ðây là những điều chưa có câu giải đáp trong thời điểm
nầy . Nhưng hậu quả đã có trước mặt : Ðất nước Việt Nam đang bị bom
đạn tàn phá tan nát . Xương máu của những con người vô tội đã chảy
khắp rừng núi đến tận ruộng đồng . Suốt từ năm 1945 cho đến thời
điểm nầy đã có khoảng gần 2 triệu người đã tử vong trong chiến tranh
. Thiết nghĩ nếu không có những con người Việt Nam mù quáng , ngu
xuẩn đi làm tay sai cho cộng sản quốc tế thì đất nước Việt Nam chắc
chắn sẽ không điêu linh như thế nầy .
4 . Lực lượng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa và lực lượng cộng sản Bắc
Việt đã giao chiến ác liệt trên những chiến trường lớn như : Chiến
trường Ấp Bắc vào tháng 2 năm 1963 . Chiến trường Ðầm Dơi tháng 9
năm 1963 . Chiến trường Ðổ Xá tháng 4 năm 1964 . Chiến trường Bình
Giả tháng 12 năm 1964 . Chiến trường Ðồng Xoài tháng 6 năm 1965 .
Chiến trường Ðức Cơ tháng 6 năm 1965 . Chiến trường Plei Me tháng 10
năm 1965
* TRÊN LÃNH THỔ MIỀN BẮC
Trong suốt thời gian Quân Ðội Hoa Kỳ chánh thức tham chiến trong
cuộc chiến tranh Việt Nam từ năm 1965 cho đến năm 1973 . Cuộc chiến
giữa Hoa Kỳ và Cộng Sản Bắc Việt trên phần lãnh thổ Bắc Việt , có
thể ghi nhận tổng lược những đợt Không Quân Hoa Kỳ oanh kích như sau
:
1 . Tháng 8 năm 1964 . Sau cuộc hải chiến của Khu Trục Hạm USS
Maddox và Khu Trục Hạm USS Turner Joy trên vùng biển Vịnh Bắc Việt .
Không Quân Hoa Kỳ lần đầu tiên oanh tạc Bắc Việt .
2 . Tháng 10 năm 1964 . Không Quân Hoa Kỳ oanh tạc đường mòn Hồ Chí
Minh .
3 . Tháng 3 năm 1965 . Sau sự việc đặc công cộng sản đặt bôm phá
hoại Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn vào tháng 12 năm 1964 và gia tăng
hành động ám sát nhân viên Hoa kỳ ở miền Nam . Tháng 3 năm 1965 ,
Chánh Phủ Hoa Kỳ mở chiến dịch Rolling Thunder , Không Quân Hoa Kỳ
tiếp tục oanh tạc Bắc Việt .
4 . Tháng 1 năm 1966 . Không Quân Hoa Ky tiếp tục oanh tạc Bắc Việt
.
5 . Tháng 6 năm 1966 . Không Quân Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc Bắc Việt
, mục tiêu chính yếu là những nơi tồn trử nhiên liệu nhằm triệt tiêu
nguồn nhiên liêu của Bắc Việt .
6 . Tháng 10 năm 1968 . Không Quân Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc Bắc Việt
nhằm vào những mục tiêu quân sự quan trọng của Bắc Việt . Sau cuộc
tổng công kích Tết Mậu Thân của cộng sản Bắc Việt trên nhiều tỉnh
thành của miền Nam và trận chiến Khe Sanh giữa Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ và quân chánh quy Bắc Việt . Ngoài ra mục đích chính của lần
oanh tạc nầy nhằm buộc cộng sản Bắc Việt ngồi vào bàn hội nghị ở
Paris .
7 . Tháng 7 năm 1969 . Không Quân Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc Bắc Việt
.
8 . Tháng 12 năm 1971 . Không Quân Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt ở khu
vực thuộc vĩ tuyến 20 .
9 . Tháng 4 năm 1972 . Không Quân Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc Bắc Việt
ở những mục tiêu thuộc Hà Nội và Hải Phòng .
10 . Tháng 5 năm 1972 . Chánh Phủ Hoa Kỳ tăng mức độ cuộc chiến trên
lãnh thổ Bắc Việt . Không Quân Hoa Kỳtiếp tục oanh tạc Hà Nội và Hải
Phòng . Ðồng thời thả thủy lôi phong tỏa vùng biển Vịnh Bắc Việt .
11 . Tháng 12 năm 1972 . Không Quân Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc gây
thiệt hại nặng nề trên lãnh thổ Bắc Việt và sau cùng cộng sản Bắc
Việt chịu vào bàn hội nghị Paris tiếp tục cuộc hòa đàm về chiến
tranh Việt Nam .
Trên đây là tổng lược về thời điểm những đợt oanh tạc của Hoa Kỳ
trên lãnh thổ Bắc Việt . Phần mục tiêu và mục đích của mỗi thời điểm
đều được ghi nhận chi tiết ở các giai đoạn diễn biến trong các tài
liệu về cuộc chiến Việt Nam .
3 . NỀN ÐỆ NHỊ CỘNH HÒA NHIỆM KỲ I NĂM 1967 – 1971
Kết quả cuộc bầu cử của dân chúng Miền Nam để chọn người lãnh đạo
đất nước vào tháng 9 năm 1967 : Tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử chức
vụ Tổng Thống Miền Nam Việt Nam . Tướng Nguyễn Cao Kỳ đắc cử chức vụ
Phó Tổng Thống Miền Nam Việt Nam .
1 . Ngày 30 tháng 10 năm 1967 . Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Tướng
Nguyễn Cao Kỳ tuyên thệ nhậm chức và nhận lãnh trách nhiệm điều hành
quốc gia trước toàn dân Miền Nam . Tuyên bố thành lập NỀN ÐỆ NHỊ
CỘNG HÒA MIỀN NAM VIỆT NAM .
2 . Từ cuộc mật nghị giữa Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson và Thủ
Tướng Nga Sô Kosygin về vấn đề hòa bình trên lãnh thổ Việt Nam .
Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã chịu một áp lực nặng nề từ chánh sách
của Chánh Phủ Hoa Kỳ về sách lược của Hoa Kỳ ở khu vực Ðông Nam Á
Châu . Ngay sau ngày tuyên thệ nhậm chức , Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu đưa ra quyết định với Chánh Phủ Hoa Kỳ là : ngưng bàn thảo về
giải pháp hòa bình với Chánh Phủ cộng sản Bắc Việt ở Hà Nội . Sự
việc nầy là một bước tiến của Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa muốn vượt
ra ngoài áp lực của Chánh Phủ Hoa Kỳ . Ðể đối ứng lại tình huống ,
Chính Phủ Hoa Kỳ đã gây áp lực nặng nề lên Chánh Phủ Miền Nam Việt
Nam trên lãnh vực ngoại giao và ngân sách viện trợ cho Miền Nam .
3 . Tình hình an ninh lãnh thổ Miền Nam Việt Nam được ghi nhận :
Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa chỉ có thể kiểm soát được khoảng 50 %
lãnh thổ Miền Nam bao gồm những thành phố lớn , những khu vực trung
tâm các tỉnh thành hay các quận lỵ . Trong khi các lực lượng cộng
sản chiếm giữ những vùng rừng núi , những vùng nông thôn hẻo lánh
lập chiến khu làm địa bàn hoạt động , khống chế sinh hoạt trong đời
sống dân chúng . Lực lượng quân sự Việt Nam Cộng Hòa và lực lượng
cộng sản đang ở vào thế xen cài nhau trên các Vùng Chiến Thuật từ
nông thôn cho đến thành thị . Tạo nên một tình huống an ninh vô cùng
phức tạp . Chiến tranh kéo dài , mỗi ngày gia tăng cường độ , kinh
tế nội địa trên đà suy thoái . Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa phải chịu
sự lệ thuộc vào ngân sách ngoại viện từ Chánh Phủ Hoa Kỳ trong việc
điều hành chính thể Miền Nam . Chánh Phủ Hoa Kỳ đã đem sách lược của
một ván cờ thuộc về phạm trù thế giới áp đặt lên lãnh thổ Miền Nam
và mang tính quyết định tương lai trên chiến trường Việt Nam .
4 . Năm 1968 . Về lãnh vực Chính Trị . Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa
Miền Nam đang chịu nhiều áp lực có tính “ áp đặt “ của Chính Phủ Hoa
Kỳ trong việc đàm phán với cộng sản Bắc Việt về giải pháp “ Hòa Bình
trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam “ . Bước đầu của giải pháp “ Việt
Nam Hóa Chiến Tranh “ trong sách lược của Chính Phủ Hoa Kỳ bắt đầu
thực hiện .
5 . Tháng 1 năm 1968 : Cộng sản Bắc Việt bắt đầu phát động những
cuộc phản công . Lực lượng chính quy Bắc Việt tiếp tục xâm nhập lãnh
thổ Miền Nam . Mở những cuộc tấn công quy mô vào những khu vực chiến
thuật trọng yếu như :
- Mặt trận Khe Sanh : Lực lượng cộng sản Bắc Việt đã tập trung nhiều
Sư Ðoàn chính quy cùng các đơn vị cơ giới tấn công và bao vây căn cứ
yểm trợ chiến thuật của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
ở Khe Sanh . Từ ngày 21 tháng 1 năm 1968 đến ngày 7 tháng 4 năm 1968
.
- Tổng công kích Tết Mậu Thân : Lực lượng cộng sản Bắc Việt đồng
loạt tấn công vào một số thành phố chiến lược của Miền Nam Việt Nam
trên 4 Vùng Chiến Thuật . Có hai trận chiến quan trọng nhất là :
a . Cuộc tấn công của cộng sản vào thủ đô Sài Gòn trong thời điểm
Tết Mậu Thân . Cuộc công kích vào thành phố Sài Gòn gồm có 2 đợt .
Công kích đợt 1 : Từ đêm 30 rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968 đến
tháng 3 năm 1968 . Công kích đợt 2 : Từ ngày 4 tháng 5 năm 1968 .
b . Cuộc tấn công của cộng sản vào cố đô Huế trong thời điểm Tết Mậu
Thân . Từ đêm 30 rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968 đến ngày 24
tháng 2 năm 1968 . Những con người cộng sản mất nhân tính sau khi đã
chạy trốn khỏi Thành Phố Huế đã để lại những đổ nát cùng tiếng khóc
với màu khăn tang trắng trên khắp đường phố Huế . Những ngày về sau
, lần lượt những ngôi mộ tập thể được phát hiện nhiều nơi ở các khu
vực ngoại thành Huế . Cộng sản Bắc Việt đã để lại một cuộc thảm sát
dã man hơn năm ngàn nhân mạng cư dân vô tội . Thành Phố Huế đổ nát
với những vành khăn tang trắng và nước mắt ...
6 . Tháng 6 năm 1969 : Sau cuộc hợp thượng đỉnh ở Midway . Có 3 biến
cố quan trọng :
1/ Chánh Phủ Hoa Kỳ đã tạo áp lực nặng nề lên Chánh Phủ Miền Nam về
mặt chính trị . Nhằm buộc Chánh Phủ Miền Nam công nhận Chánh Phủ
Cách Mạng Lâm Thời của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , để trở thành
một thành phần chính thức tham dự trong Hội Nghị Paris . Ðây là một
trong những điều kiện mang tính bức hại mà Chánh Phủ Hoa Kỳ đã áp
đặt lên chủ quyền của Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam .
2/ Tổng Thống Hoa Kỳ tuyết bố lần lượt triệt thoái Quân Ðội Hoa Kỳ
ra khỏi chiến trường Miền Nam Việt Nam . Trong khi chiến cuộc trên
lãnh thổ Miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt . Miền Nam Việt Nam đang
cần có sự tiếp trợ của lực lượng quân sự của Hoa Kỳ . Chánh Phủ Hoa
Kỳ có thừa sự nhận biết về sự việc nầy , nhưng tại sao họ lại hành
động như thế ? - Có thể nói nói đây là một ẩn số nằm trong một
phương trình chính trị … Từ tháng 6 đến tháng 12 , lực lượng Quân
Ðội Hoa Kỳ triệt thoái khoảng 135.000 quân nhân . Về mặt chiến thuật
, Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa làm sao có thế thay thế lực lượng Hoa
Kỳ trên các cứ điểm chiến thuật trong một thời gian quá ngắn với một
chiến tuyến quá rộng lớn …
3/ Cùng một thời điểm rút quân , Chánh Phủ Hoa Kỳ đã đưa ra kế hoạch
“ Việt Nam Hóa Chiến Tranh “ trên lãnh thổ Miền Nam . Trong khi ngân
sách quân viện Chánh Phủ Hoa Kỳ yểm trợ cho Chánh Phủ Miền Nam từng
bước cắt giảm . Việc huấn luyện đào tạo nhân sự để phát triển lực
lượng quân sự cần phải trải qua một tiến trình dài hạn …
Trên đây là có thể nói là 3 điều nan giải trong số rất nhiều điều
kiện khác mà Chánh Phủ Hoa Kỳ đã áp đặt lên Chánh Phủ Miền Nam Việt
Nam . Nhằm vào mục đích tạo áp lực và có thể điều khiển Chánh Phủ
Miền Nam theo sách lược của Chánh Phủ Hoa Kỳ trên bàn Hội Nghị Paris
.
Qua những sự kiện đang diễn biến trên lãnh vực Chính Trị . Trong
thời điểm nầy có một số vấn đề có thể ghi nhận như sau :
- Qua những cuộc mật đàm giữa Chánh Phủ Hoa Kỳ và cộng sản Quốc Tế .
Cho thấy số phận
của Miền Nam là do họ đã định đoạt , trên nguyên tắc kết quả đã có
rồi và lấy Hội Nghị Paris để hợp thức hóa trước thế giới , sau đó là
từng bước triển khai để đi đến kết thúc …
- Về việc “ Việt Nam Hóa “ khi cuộc chiến đã và đang diễn biến khốc
liệt trên lãnh thổ Miền Nam . Ðây là kế hoạch Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa sẽ thay thế lực lượng Quân Ðội Hoa Kỳ , đơn phương đối đầu với
các lực lượng cộng sản Bắc Việt . Kế hoạch nầy phải chăng là một
hình thái hợp thức hóa mở đầu cho một cuộc triệt thoái trong danh dự
của Chánh Phủ Hoa Kỳ . Từng bước bỏ rơi Miền Nam tạo điều kiện thuận
lợi cho cộng sản Bắc Việt xâm chiếm miền Nam ?!
7 . Hội Nghị Paris với nội dung là đưa ra “ tìm kiếm giải pháp hòa
bình cho Việt Nam “, để kết thúc một cuộc chiến xâm lược của cộng
sản Bắc Việt đã kéo dài trong nhiều năm trên lãnh thổ Miền Nam .
Cuộc chiến nầy trên thực chất đã bị “ Quốc Tế Hóa “ bởi hai thế lực
“ cộng sản xã hội chủ nghĩa “ và “ dân chủ tư bản “ . Chung cuộc dân
tộc Việt Nam cả hai miền Nam và Bắc đều là những nạn nhân khốn khổ …
Hội Nghị Paris hình thành không ngoài mục đích “ hợp thức hóa “ cuộc
chiến tranh xâm lược của cộng sản Bắc Việt trên lãnh thổ Miền Nam
theo tham vọng của cộng sản quốc tế . Sự kiện nầy hoàn toàn đã gây
ra bất lợi cho Chánh Phủ Miền Nam .
Hội Nghị Paris diễn tiến với một chuỗi biến động về mặt chính trị
lẫn quân sự , trên một tiến trình kéo dài qua nhiều năm . Vì sao có
những hiện tượng nầy ? - Có thể nói là khởi từ những ý đồ tham vọng
điên cuồng , cộng sản Bắc Việt nhận thấy rõ là nếu Hội Nghị Paris
kết thúc nhanh chóng suông sẻ thì họ sẽ không chiếm trọn lãnh thổ
Miền Nam . Chánh Phủ Miền Nam vẫn tồn tại , cuộc chiến xâm lược sẽ
không mang lại kết quả theo như ý muốn của họ . Mục tiêu tối hậu của
cộng sản Bắc Việt là họ muốn tìm sự chiến thắng bằng giải pháp quân
sự trên chiến trường , chứ không phải bằng những thành quả trên bàn
Hội Nghị Paris với những điều kiện ràng buộc . Cho nên đã lợi dụng
trong Hội Nghị Paris , luôn cố tình gây rối tạo bao trở ngại để kéo
dài thời gian , hầu thực hiện kế sách “ vừa đánh vừa đàm “ . Mỗi lần
phái đoàn cộng sản Bắc Việt cố tình rời bỏ Hội Nghị tạo ra sự gián
đoạn , thì Chánh Phủ Hoa Kỳ dùng giải pháp oanh tạc trên lãnh thổ
Bắc Việt để ép phái đoàn cộng sản Bắc Việt trở lại Hội Nghị . Trên
thực thế đã xảy ra rất nhiều lần như vậy …
8 . Về lãnh vực quân sự . Trong năm 1969 . Lực lượng liên quân Hoa
Kỳ và Việt Nam thường xuyên mở những cuộc hành quân , nhằm truy lùng
các lực lượng cộng sản xâm nhập , phá hủy những cơ sở hậu cần trung
chuyển của cộng sản trong khu vực thung lũng A Shau . Có những cuộc
hành quân quy mô như : Cuộc hành quân tái chiếm khu vực Khe Sanh từ
tháng 1 năm 1969 . Cuộc hành quân Delawar và Dewey Canyon từ ngày 22
tháng 1 đến ngày 18 tháng 3 năm 1969 . Cuộc hành quân Apache Snow từ
ngày 10 tháng 5 đến ngày 7 tháng 6 năm 1969 . Cuộc hành quân chiếm
lại Ðồi 937 từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5 năm 1969 . Trận
chiến Ben Het : Khai diễn từ ngày 4 tháng 5 đến ngày 10 tháng 7 năm
1969 .
9 . Năm 1969 . Chánh Phủ Hoa Kỳ tuyên bố hai điều quan trọng ;
. Quân Ðội Hoa Hoa Kỳ và Ðồng Minh lần lượt triệt thối ra khỏi lãnh
thổ Miền Nam .
. Triển khai chương trình “ Việt Nam Hóa Chiến Tranh “ trên lãnh thổ
Niền Nam .
Những điểm trên đây đã xác định rằng : Ván cờ cuối cùng đang đươc
thực hiện . Mục đích của họ đã thành đạt . Quân Ðội Hoa Kỳ và Ðồng
Minh triệt thoái trong trật tự . Số phận Miền Nam đã đượïc
quyết định trên bàn cờ Quốc Tế . Hồi chuông báo tử cho Miền Nam đã
bắt đầu từ thời điểm nầy .
10 . Tháng 1 năm 1970 . Henry Kissinger mở đầu những cuộc mật dàm
với phái đoàn cộng sản Bắc Việt . Không có sự tham dự của đại diện
phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa . Chánh Phủ Miền Nam Việt
Nam đang chịu áp lực nặng nề về mặt ngoại giao của Chánh Phủ Hoa Kỳ
trên nhiều phương diện như : Ngân sách viện trợ hành chánh và quân
sự . Trang thiết bị quân sự theo chương trình Việt Nam Hóa bắt đầu
từ năm 1968 . Chánh Phủ Miền Nam đang chịu áp lực về sách lược chánh
trị của Chánh Phủ Hoa Kỳ và Khối Cộng Sản trong Hội Nghị Paris .
Chánh Phủ Miền Nam đã bị áp đặt trước một ván cờ chính trị đã được
an bài , là nhân tố chính trong cuộc diện nhưng chỉ là vai trò phụ
trên bàn hội nghị .
NHỮNG CUỘC HÀNH QUÂN NGOẠI BIÊN 1969 – 1971
Những cuộc hành quân ngoại biện của liên quân Quân Ðội Việt Nam Cộng
Hòa và Quân Ðội Hoa Kỳ đã được triển khai qua 3 giai đoạn . Tóm lược
như sau :
1 . Giai Ðoạn I : Cuộc hành quân Menu . Từ ngày 18 tháng 3 năm 1969
- Ðơn vị tham chiến : Các đơn vị Không Quân Chiến Thuật của Hoa Kỳ .
Oanh tạc cơ B.52 giữ vai trò chính . Oanh tạc dọc theo đường mòn Hồ
Chí Minh , ngăn chận các dơn vị cộng sản xâm nhập và phá hủy những
cơ sở chiến lược của cộng sản đã thiết lập trên lãnh thổ Lào và
Cambodia .
2 . Giai Ðoạn II : Ðược triển khai đồng loạt từ 3 Vùng Chiến Chiến
Thuật . Với sự phối hợp của các lực lượng thuộc Quân Ðội Việt Nam
Cộng Hòa và Quân Ðội Hoa Kỳ .
- Vùng II Chiến Thuật : Triển khai 2 cuộc hành quân : Bình Tây 1 :
Từ ngày 5 đến 25 tháng 5 năm 1970 . Bình Tây 2 : Từ ngày 14 đến 26
tháng 5 năm 1970 .
- Vùng III Chiến Thuật : Triên khai 4 cuộc hành quân : Toàn Thắng 41
: Từ ngày 14 tháng 4 năm 1970 . Toàn Thắng 42 : Từ ngày 30 tháng 4
năm 1970 . Toàn Thắng 43 : Từ ngày 1 tháng 5 năm 1970 . Toàn Thắng
44 : Từ ngày 6 đến 30 tháng 6 năm 1970 .
- Vùng IV Chiến Thuật : Triển khai 3 cuộc hành quân : Cửu Long 1 :
Từ ngày 9 tháng 5 đến ngày 1 tháng 7 năm 1970 . Cửu Long 2 : Từ ngày
16 đến 24 tháng 5 năm 1970 . Cửu Long 3 : Từ ngày 24 đến 30 tháng 5
năm 1970 .
Tất cả những cuộc hành quân nầy được triển khai trên lãnh thổ
Cambodia . Nhằm truy kích tiêu diệt lực lượng cộng sản , phá hủy các
cơ sở hậu cần đã được cộng sản thiết lập trên lãnh thổ Cambodia từ
nhiều năm trước dọc theo biên giới Việt Nam và Cambodia.
3 . Giai Ðoạn III : Do Vùng I Chiến Thuật Triển khai trên lãnh thổ
Lào .
- Vùng I Chiến Thuật : Cuộc hành quân Lam sơn 719 từ ngày 8 tháng 2
đến ngày 25 tháng 3 năm 1971 . Cuộc hành quân nầy do các lực lượng
của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tham chiến . Các đơn vị Hoa Kỳ yểm
trợ hỏa lực Pháo Binh và Không Quân .
Tóm lược tình hình chung trong năm 1971 :
1 / Trong năm 1971 . Tình hình Miền Nam đang trong tình huống vô
cùng khó khăn nhiều bất trắc :
. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 với nhiều tổn thất . Không đem lại
thành quả mong muốn . Việc tái trang bị gặp nhiều trở ngại vì quân
viện bị cắt giảm . Trong việc Việt Nam Hóa chiếân tranh ở Miền Nam .
Lực lượng Hoa Kỳ triệt thoái quá nhanh . Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa
phải trải mỏng ra để thay thế Quân Ðội Hoa Kỳ ở những cứ điểm quan
trọng . Tạo nên một tình trạng chấp vá , hụt hẩn , không còn giữ thế
tương quan với lực lượng cộng sản Bắc Việt .
2 / Tháng 10 năm 1971 . tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm
kỳ 2 . Tình hình nội bộ trong giới lãnh đạo có hiện tượng phân hóa
trầm trọng . Sách lược của Chánh Phủ Hoa Kỳ áp đặt lên Miền Nam đang
đi đến giai đoạn kết thúc trong năm 1972 .
IV. GIAI ÐOẠN IV TỪ NĂM 1972 ÐẾN NĂM 1975
NỀN ÐỆ NHỊ CỘNH HÒA NHIỆM KỲ II
Tóm lược tình hình chung trong năm 1972 :
1/ Phi cơ chiến lược B.52 chấm dứt oanh tạc đường mòn Hồ Chí Minh .
Cộng sản Bắc Việt ồ ạt chuyển quân , chiến xa , hỏa tiển , pháo binh
, chiến cụ xâm nhập vào Miền Nam Việt Nam .
2/ Các đảng phái chính trị mất dần sự đoàn kết và tinh thần trách
nhiệm đối với đất nước , tranh chấp ảnh hưởng nơi chính trường và
không thấy được cái bẫy cộng sản đang giăng ra . Sự xuất hiện của
Tướng Dương Minh cùng nhóm người còn ngây thơ có khuynh hướng “thành
phần thứ ba “ trên lãnh thổ Miền Nam . Ðiều nầy đã được xác định vào
tháng 4 năm 1975 .
3/ Phong trào Phật Giáo vẫn tiếp tục chống đối Chánh Phủ , tạo lợi
thế chính trị cho cộng sản .
4 / Về mặt đối ngoại Chánh Phủ Miền Nam gần như ở vào tình huống đơn
độc , khó có thể xoay chuyển được thế cờ .
5/ Sự kiện Tổng Thống Nixon của Hoa Kỳ mật đàm với Mao Trạch Ðông
trên lãnh thổ Trung Quốc , có thể xác định trên mặt chính trị là sự
tồn vong của Miền Nam đã được quyết định . Bây gờ chỉ còn một việc
làm cuối cùng là hợp thức hóa sự việc trên thực tế .
CHIẾN TRƯỜNG TRONG NĂM 1972
Từ ngày 30 tháng 3 năm 1972 . Cộng sản Bắc Việt triển khai chiến
dịch “ Xuân Hè “ tổng tấn công ở 3 Vùng Chiến Thuật trên lãnh thổ
Miền Nam . Nhằm vào 3 mục tiêu chiến lược trọng yếu với từng chủ
đích ở mỗi mục tiêu :
1 . Vùng I Chiến Thuật
- Mục Tiêu : Chiếm lĩnh 5 tỉnh phía Bắc của lãnh thổ Miền Nam trực
thuộc Vùng I Chiến Thuật là : Tỉnh Quảng Trị , Tỉnh Thừa Thiên ,
Tỉnh Quảng Nam , Tỉnh Quảng Tín và Tỉnh Quảng Ngải .
- Mục Ðích : Ðể làm bàn đạp cho những bước kế tiếp chiếm trọn lãnh
thổ miền Nam .
- Ngày 30 tháng 3 năm 1972 . Cộng sản Bắc Việt mở cuộc tấn công vào
Tỉnh Quảng Trị . Trận chiến nầy diễn tiến qua hai giai đoạn . Giai
Ðoạn Một : Cộng sản tấn công chiếm Thị Xã Quảng Trị và những vùng
phụ cận từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 2 tháng 5 năm 1972 . Huế từ ngày
28 tháng 4 đến ngày 29 tháng năm 1972 . Giai Ðoạn Hai : Quân Ðội
Việt Nam Cộng Hòa phản công tái chiếm Quảng Trị từ Tháng 6 đến tháng
9 năm 1972 .
2 . Vùng II Chiến Thuật
- Mục Tiêu : Chiếm Tỉnh Kontum , Tỉnh Pleiku và Tỉnh Bìng Ðịnh thuộc
Vùng II Chiến thuật .
- Mục Ðích : Nhằm vào mục đích cắt đôi lãnh thổ Miền Nam .
- Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1972 . Vùng II Chiến Thuật đã phải đối
dầu với lực lượng cộng sản Bắc Việt trên chiến trường Kontum với
nnhững trận ác chiến đẳm máu . Tuy đẩy lui đượïc cuộc tổng công kích
của cộng sản vào Tỉnh Kontum nhưng Vùng II Chiến Thuật cũng chịu
những thiệt hại nặng nề .
3 . Vùng III Chiến Thuật
- Mục Tiêu : Tỉnh Lộc Ninh , Tỉnh Bình Long và Tỉnh Tây Ninh .thuộc
Vùng III Chiến Thuật .
- Mục Ðích : Bao vây và tấn công chiếm Sài Gòn . Tiếp theo là chiếm
trọn lãnh thổ Miền Nam .
- Cộng sản Bắc Việt triển khai cuộc tổng công kích trên lãnh thổ
Vùng III Chiến Thuật qua từng bước :
. Bước Thứ Nhất : Tấn cộng bao vây cô lập Tỉnh Tây Ninh với cá khu
vực khác . Bước Thứ Hai : Tấn công Lộc Ninh . Bước Thứ Ba : Tấn công
bao vây An Lộc .
4 . Vùng IV Chiến Thuật .
Cộng sản Bắc Việt triển khai chiến trường trên lãnh thổ Vùng IV
Chiến Thuật :
- Mục Tiêu : Các tỉnh vùng biên giới Việt Nam Cambodia . Các tỉnh
thuộc khu vực Hậu Giang . Các tỉnh thuộc khu vực Tiền Giang.
- Mục Ðích : Chiếm giữ kho lương thực của Miền Nam . Phong tỏa nguồn
kinh tế chính yếu của Miền Nam .
Các chiến trường kéo dài từ ngày 30 tháng 3 năm 1972 đến ngày 22
tháng 10 năm 1972 . Cộng sản Bắc Việt hoàn toàn bị đẩy lui ra khỏi
các mục tiêu . Thất bại nặng nề trong chiến dịch Xuân Hè năm 1972 .
HIỆP ĐỊNH PARIS 1973
1 . Ngày 27 tháng 1 năm 1973 . Hiệp Ðịnh Paris được ký kết giữa 3
phái đoàn : Phái Ðoàn Ðại Diện Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam
Việt Nam . Phái Ðoàn Ðại Diện Chánh Phủ Hoa Kỳ . Phái Ðoàn Ðại Diện
Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Miền Bắc Việt Nam .
2 . Tháng 2 năm 1973 . Chánh Phủ Hoa Kỳ bắt đầu triển khai chương
trình “ Operation Homecoming “ .
3 . Ngày 29 tháng 3 năm 1973 . Theo Hiệp Ðịnh Paris các đơn vị Quân
Ðội Hoa Kỳ triệt thoái khỏi Miền Nam . Chỉ lưu lại một toán nhỏ để
bảo vệ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn .
4 . Ngày 19 tháng 6 năm 1973 . Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành sắc luật cấm
Quân Ðội Hoa Kỳ trong tương lai không được hành động quân sự trên
lãnh thổ Việt Nam , Lào và Cambodia . Quân Ðội Hoa Kỳ chấm dứt nhiệm
vụ tham chiến trong chiến tranh Việt Nam . Chánh Phủ Hoa Kỳ chỉ tiếp
tục cung cấp chiến cụ và viện trợ kinh tế cho Chánh Phủ Miền Nam
Việt Nam .
TỪ HỘI NGHỊ GENEVE ÐẾN HỘI NGHỊ PARIS
Có thể xác định một điều là sự tồn vong của đất nước Việt Nam , sự
sinh tồn của dân tộc Việt Nam đã phải trải qua những năm tháng điêu
linh từ những quyết định của 2 cuộc Hội Nghị :
1 . Từ Năm 1954 : Từ cuộc Hôi Nghị ở Geneve Hiệp Ðịnh Geneve được ký
kết nhằm vào mục đích : Chấm dứt chế độ thuộc địa của Thực Dân Pháp
. Tìm một giải pháp hòa bình cho Việt Nam bằng cách chia đôi lãnh
thổ Việt Nam . Hợp thức hóa vai trò của lực lượng cộng sản Việt Minh
. Ðây chính là dấu ấn Quốc Hận trên dòng chiến sử của Việt Nam .
Cộng sản Bắc Việt tiếp tục triển khai “ cuộc chiến trường chinh với
chiến thuật tầm ăn dâu “, xâm nhập lãnh thỗ Miền Nam đã đưa dân
chúng hai miền Nam và Bắc vào một cuộc chiến đẳm máu và nước mắt .
2 . Từ Năm 1968 đến Năm 1973 : Từ Hội Nghi ở Paris , Hiệp Ðịnh Paris
được ký kết nhằm mục
đích : Tìm giải pháp hòa bình cho Việt Nam trong cuộc chiến giữa hai
miền Nam và Bắc . Lệnh ngưng bắn tại chỗ tạo thành những vùng đất “
da beo “ . Lại một lần nữa bản văn đã hợp thức hóa vị trí của cộng
sản Bắc Việt trên lãnh thổ Miền Nam . Tạo điều kiện cho cộng sản Bắc
Việt thành công trong chiến thuật “ tầm ăn dâu , giành dân lấn đất “
. Hiệp Ðịnh Paris là một bản văn thứ hai hợp thức hóa việc các siêu
cường bức tử Miền Nam Việt Nam . Thành phần các phái đoàn của các
siêu cường tham dự Hội Nghị Geneve và Hội Nghị Paris vẫn không có sự
thay đổi nào mới . Những hành động của cộng sản Bắc Việt vi phạm các
Hiệp Ðịnh thì họ không hề lên tiếng . Họ chỉ là những nhân chứng
đứng về phía cộng sản Bắc Việt .
DÒNG SUY NIỆM
Trong suốt thời gian từ năm 1954 đến năm 1973 . Vì lý tưởng tự do
bảo vệ hòa bình . Các chiến binh Hoa Kỳ đả sát vai cùng với các
chiến binh Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu khắp các chiến trường trên
lãnh thổ Việt Nam . Mồ hôi cùng xương máu của các chiến binh Hoa Kỳ
đã đổ xuống trên mãnh đất Miền Nam Việt Nam , để bảo vệ sự tự do
chống lại làn sóng xâm lược dã man của cộng sản Bắc Việt , đây là
một sự hy vô cùng cao cả . Ðối với những người Việt Nam không theo
cộng sản mãi mãi ghi nhớ và tri ân sâu xa các chiến binh Hoa Kỳ đã
tham chiến trên chiến trường Việt Nam . Là cựu chiến binh Việt Nam
Cộng Hòa chúng tôi muốn minh định một sự thật : Các chiến binh Hoa
Kỳ và các chiến binh Ðồng Minh tham chiến trên chiến trường Việt Nam
. Ho đã chiến đấu anh dũng vì chính nghĩa tự do và đã chiến thắng
khắp các chiến trường trên lãnh thổ Miền Nam . Các chiến binh Hoa Kỳ
và Ðồng Minh đã chiến thắng cộng sản trên chiến trường Miền Nam .
Những giới chức lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đã thiếu tinh thần trách
nhiệm và phạm nhiều sai lầm với những sách lược của họ trong cuộc
chiến Việt Nam . Chiến binh Hoa Kỳ và Ðồng Minh tham chiến trên
chiến trường Việt Nam lặng lẽ lên đường hồi hương trong khi cuộc
chiến vẫn còn tiếp diễn . Tại Hoa Kỳ họ chỉ nhận được sự tiếp đón
với thái độ lạnh nhạt . Ðây là một sự đối xử không công bằng đối với
các chiến binh Hoa Kỳ tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam .
TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ NĂM 1974
Trong năm 1974 . Tình hình chiến trường trên lãnh thổ Miền Nam trở
nên vô cùng sôi động nhất là ỡ những vùng nông thôn . Có 4 chiến
trường quan trọng :
- Chiến trường Hoàng Sa : Vào tháng 1 năm 1959 . Cộng sản Trung Quốc
đã xâm nhập chiếm đảo Ducan còn gọi là đảo Quang Hòa. đã bị một dơn
vị thuộc Tiểu Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đổ bộ tấn công
tiêu diệt toàn bộ . Trận Hải Chiến Hoàng Sa . Ngày 19 tháng 1 năm
1974 . Trung Quốc chiếm Hoàng Sa sau một trận hải chiến với Hải Quân
Việt Nam Cộng Hòa .
- Chiến Trường Svay Rieng Cambodia . Ngày 27 tháng 4 đến ngày 2
tháng 5 năm 1974 .
- Chiến Trường Khu Tam Giác Sắt . Ngày 16 tháng 5 đến ngày 20 tháng
11 năm 1974 .
- Chiến Trường Tỉnh Phước Long . Ngày 13 tháng 11 năm 1974 đến ngày
6 tháng 1 năm 1975 .
TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ TRÊN LÃNH THỔ MIỀN NAM NĂM 1975
Trong những tháng đầu của năm 1975 . Ðây là thời điểm đen tối nhất
trên toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam . Tình hình chiến trường trở
nên vô cùng biến động trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật . Cộng sản Bắc
Việt triển khai chiến dịch “ Mùa Xuân “ từ ngày 13 tháng 11 năm 1974
đến cuối tháng
3 năm 1975 .
TÌNH HÌNH CHUNG
VÙNG I CHIẾN THUẬT .
. Ðồng loạt với những cuộc tấn công chiếm giữ Tây Nguyên ở vùng II
Chiến Thuật . Cộng sản Bắc Việt đã triển khai chiến dịch Hồ Chí Minh
trên lãnh thổ Vùng I Chiến Thuật : Từ ngày 19 tháng 3 năm 1975 đến
ngày 30 tháng 3 năm 1975 . Lực lượng cộng sản bao vây tấn công 5
Tỉnh thuộc Vùng I Chiến Thuật .
. Diễn tiến tình hình trên lãnh thổ vùng I Chiến Thuật : Tỉnh Quảng
Trị thất thủ ngày 19 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Thừa Thiên và Huế thất
thủ ngày 25 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngải thất thủ
ngày 24 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Quảng Nam thất thủ ngày 30 tháng 3
năm 1975 . Ðà Nẳng thất thủ ngày 30 tháng 3 năm 1975 .
. Theo tài liệu còn lưu lại , có một số dự kiện tổn thất ghi nhận
như sau : Lực lượng quân sự trực thuộc Quân Ðoàn I đã bị thiệt hại
trên 75% về nhân sự . Khoảng 16.000 quân nhân và cư dân di tản đến
miền Nam . Về chiến cụ theo tài liệu còn lưu lại , sự thiệt hại được
ước lược : 327 khẩu đại bác gồm 105 ly và 155 ly . 179 chiếc chiến
xa và thiết giáp bị phá hủy . 129 chiếc phi cơ các loại . 47 chiếc
tàu các loại . Các thành phần viên chức chách quyền địa phương , các
lực lượng bán quân sự và cư dân địa phương di tản trên 2 tuyến đường
: Quốc Lộ 1 từ Quảng Trị và Huế vào Ðà Nẳng , từ Quảng Ngãi và Quảng
Nam ra Ðà Nẳng . Ðường Biển giữa Huế và Ðà Nẳng . Trên lộ trình di
tản bằng đường bộ dân chúng lâm vào những tình huống như : Bị thương
vong vỉ cộng sản sát hại , vì đạn pháo kích của cộng sản bắn chận
trên lộ trình , hoặc vì hỏa lực của cả hai phía đang giao tranh .
Trên lộ trình di tản bằng đường biển , đang ở vào thời điểm biển
động mạnh , có một số xà lang và ghe nhỏ bị chìm ngoài khơi, gây
thiệt hại rất nhiều về nhân mạng . Sau cùng đa số cư dân di tản đến
Ðà Nẳng an toàn . Nhưng phải tiếp tục dùng đường biển di chuyển vào
trong Nam . Hệ thống đường bộ đã hoàn toàn bị lực lượng cộng sản Bắc
Việt kiểm soát .
VÙNG II CHIẾN THUẬT .
. Cộng sản Bắc Việt triển khai chiến dịch Hồ Chí Minh trên lãnh thổ
Vùng II Chiến Thuật . Lực lượng cộng sản đã vao vây tấn công khu vực
Tây Nguyên . Nhằm mục đích phân chia lãnh thổ Miền Nam ra làm 2 mảnh
. Cô lập hoàn toàn vùng I Chiến Thuật : Từ ngày 14 tháng 3 năm 1975
đến ngày 2 tháng 4 năm 1975 . Lưc lượng cộng sản bao vây tấn công và
chiếm giữ Tây Nguyên .và các Tỉnh thuộc vùng II Chiến Thuật .
. Diễn tiến tình hình trên lãnh thổ Vùng II Chiến Thuật : Tỉnh
Darlac thất thủ ngày 13 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Buôn Mê Thuộc thất
thù ngày 13 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Kontum và Tỉnh Pleiku thất thủ
ngày 16 tháng 3 năm 1975 . Phú Bổn thất thủ ngày 18 tháng 3 năm
1975. Tỉnh Quảng Ðức thất thủ ngày 22 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Lâm
Ðồng thất thủ ngày 28 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Bình Ðịnh
và Qui Nhơn thất thủ ngày 31 tháng 3 năm 1975 . Tỉnh Khánh Hòa và
Nha Trang thất thủ ngày 1 tháng 4 năm 1975 . Các đơn vị quân sự Việt
Nam Cộng Hòa cùng cư dân vùng Tây Nguyên di tản theo 3 tuyến đường :
Tỉnh Buôn Mê Thuộc , theo Quốc Lộ 21 di tản về vùng Duyên Hải Nha
Trang thuộc Tỉnh Khánh Hòa . Lực lượïng quân sự và cư dân Tỉnh
Kontum và Tỉnh Pleiku theo Tỉnh Lộ 7B
di tản về vùng Duyên Hải Tuy Hòa thuộc Tỉnh Phú Yên . Một số cư dân
Plieku di tản theo Quốc Lộ 19 để về Qui Nhơn thuộc Tỉnh Bình Ðịnh .
Các lực lượng cộng sản đã pháo kích , phục kích trên tuyến đường
Quốc Lộ 19 ,Quốc Lộ 21 và Tỉnh lộ 7B đã sát hai đoàn người di tản
một cách dã man , không khác gì những việc họ đã thực hiện trên Quốc
Lộ 1 năm 1972 .
. Theo tài liệu còn lưu lại , có một số dự kiện tổn thất ghi nhận
như sau : Lực lượng quân sự trực thuộc Quân Ðoàn II đã bị thiệt hại
trên 75% về nhân sự . Về chiến cụ theo tài liệu còn lưu lại , sự
thiệt hại được ước lược như sau : 17. 183 vủ khí nhẹ đủ loại . 79
khẩu đại bác gồm 105 ly và 155 ly. 207 chiếc chiến xa và thiết giáp
bị phá hủy . 44 chiếc phi cơ bị phá hủy . 110 chiếc phi cơ bị hư hại
. Các thành phần viên chức chách quyền địa phương các lực lượng bán
quân sự và cư dân địa phương :
Khoảng 400.000 người di tản trên 3 tuyến đường : Quốc Lộ 19 , Quốc
Lộ 21, Liên Tỉnh Lộ 7B . Trên lộ trình di tản thành phần dân chúng
lâm vào những tình huống như : Bị thương vong vì cộng sản sát hại ,
vì đạn pháo kích của cộng sản bắn chận trên lộ trình , hoặc vì hỏa
lực của cả hai phía đang giao tranh . Một số lớn bị thất lạc và chết
trong các vùng rừng núi . Sau cùng chỉ có một số rất ít di tản đến
khu vực an toàn .
VÙNG III CHIẾN THUẬT
Ngày 6 tháng 1 năm 1975 . Tỉnh Phước Long và một số khu vực phụ cận
đã bị lực lượng cộng sản chiếm giữ . Cộng sản Bắc Việt đã thành công
trong việc thiết lập một bàn bàn đạp chiến lược “ Liên Vùng “ , mở
đầu cho chiến dịch “ Mùa Xuân 1975 “ là giai đoạn đầu của chiến dịch
Hồ Chí Minh . Từ cứ điểm Phước Long cộng sản Bắc Việt điều động lực
lượng quân sự xâm nhập lãnh thổ Miền Nam xuyên qua 3 vùng Chiến
Thuật : Vùng II , Vùng III và Vùng IV một cách dễ dàng . Ðường mòn
Hồ Chí Minh không còn bị Không Quân chiến lược của Hoa Kỳ oanh tạc .
Cộng sản Bắc Việt vận chuyển lực lương , chiến cụ xâm nhập Miền Nam
không còn gặp trở ngại . Tỉnh Bình Long thất thủ ngày 18 tháng 3 năm
1975 .
Cộng sản Bắc Việt triển khai chiến dịch Hồ Chí Minh trên lãnh thổ
Vùng III Chiến Thuật . Ðây là một chiến trường cuối cùng mang tính
quyết định trong cuộc chiến tranh ở Miền Nam Việt Nam .
Từ ngày 11 tháng 3 năm 1975 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Nhằm
chiếm Thủ Ðô Sài Gòn . Lật đổ thể chế Miền Nam . Chiếm lĩnh toàn bộ
lãnh thổ Miền Nam . Căn cứ trên yếu tố thời gian . Chiến trường trên
lãnh thổ của Vùng III Chiến Thuật lần lượt diễn tiến như sau :
. THÁNG 3 NĂM 1975 : Khu Vực Phía Tây Vùng III Chiến Thuật : Tỉnh
Tây Ninh và Tỉnh Bình Dương . Khu Vực Phía Tây Bắc Vùng III Chiến
Thuật : Tỉnh Bình Long , Dầu Tiếng và Chơn Thành .
. THÁNG 4 NĂM 1975 : Khu Vực Phía Bắc , Ðông Bắc Vùng III Chiến
Thuật : Tỉnh Phan Rang , Tỉnh Phan Thiết , Tỉnh Bình Tuy , Tỉnh Long
Khánh và Thủ Ðô Sài Gòn.
VÙNG IV CHIẾN THUẬT .
Lực lượng cộng sản mở những cuộc tấn công không có tánh cách quy mô
. Tình hình chiến trường trên lãnh thổ vùng IV tương đối ổn định .
TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ DIỄN BIẾN TRONG THÁNG 4 NĂM 1975
1 . THỜI ÐIỂM SAU CÙNG
1 . Ðây là thời điểm quyết định sau cùng của cuộc chiến kéo dài 20
năm . Một cuộc chiến tương
tàn đẳm máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam . Về hình thức : Thoáng
nhìn thì có vẻ như là một cuộc chiến mang màu sắc “ nội chiến “ . Về
thực chất : Xác thực đây là một cuộc chiến “ ý thức hệ “ . Cuộc
chiến nầy đã bị “ quốc tế hóa “ .
2 . Cũng từ thời điểm nầy . Ðối với Miền Nam Việt Nam : Ðây là một
trận chiến cuối cùng , quyết
định sự tồn vong của Thể Chế Việt Nam Cộng Hòa của Miền Nam Việt Nam
. Ðối với Cộng Sản Bắc Việt : Ðây là giai đoạn cuối của một cuộc
chiến xâm lược kéo dài suốt 20 năm . Cũng là thời điểm kết thúc
chiến dịch Hồ Chí Minh . Ðối với Chánh Phủ Hoa Kỳ , hoàn tất ván cờ
cuối cùng , giao Miền Nam cho cộng sản Bắc Việt để đánh đổi quyền
lợi với cộng sản quốc tế .
3 . Ngày 3 tháng 4 năm 1975 . Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald R. Ford công
bố chương trình di tản nhân đạo bằng phương tiện Không Quân và Hải
Quân trên lãnh thổ Miền Nam . Có 2 cuộc di tản :
- Operation Baby Lifte . Bằng vận tải cơ quân sự C.5A Galaxy . Di
tản được khoảng 2.000 trẻ em cô nhi Việt Nam . Trong cuộc di tản nầy
có một chiếc C.5A Galaxy bị lực lượng cộng sản bắn rơi , có 138
người bị tử vong .
- Operation New Life . Phối hợp phương tiện giữa các đơn vị Không
Quân và Hải Quân Hoa Kỳ . Di tản được khoảng hơn 110.000 người đến
các khu vực tị nạn an toàn .
Lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ thuộc Ðệ Thất Hạm Ðội túc trực ngoài khơi
hải phận Miền Nam . Trong chương di tản nhân đạo nầy có sự tham gia
của lực lượng Không Quân Hoàng Gia Úc Ðại Lợi .
4 . Ngày 2 tháng 4 năm 1975 . Lưởng viện Quốc Hội dưa kiến nghị yêu
cầu Tổng Thống Thiệu thành lập một nội các mới . Tổng Thống Thiệu
chấp thuận đề nghị của Quốc Hội . Ngày 5 tháng 4 năm 1975 . Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm chính thức từ nhiệm chức vụ Thủ Tướng Chánh
Phủ Miền Nam . Ngày 14 tháng 4 năm 1975 . Chủ Tịch Ha Viện Nguyễn Bá
Cẩn , thay Tướng Trần Thiện Khiêm thành lập tân nội các .
5 . Ngày 21 tháng 4 năm 1975 . Chiến trường Xuân Lộc bị thất thủ .
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia tại
Dinh Ðộc Lập . Thông báo trước Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia và dân
chúng Miền Nam về quyết định và lý do ông từ nhiệm chức vụ Tổng
Thống . Trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương . Vào lúc
19 giờ 30 cùng ngày . Lễ bàn giao chức vụ được tổ chức tại Dinh Ðộc
Lập .
6 . Ngày 23 tháng 4 năm 1975 . Nội các do ộng Nguyễn Bá Cẩn thành
lập đã đệ đơn xin từ nhiệm . Trong thời điểm tình hình diễn biến vô
cùng nghiêm trọng . Chưa tìm được người thay thay thế . Tổng Thống
Trần Văn Hương đã yêu cầu ông Nguyễn Bá Cẩn và các thành phần trong
nội các lưu nhiệm trong một thời gian đề tìm người thay thế .
7 . Ngày 27 tháng 4 năm 1975 . Tại trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa
. Lưỡng Viện Quốc Hội cùng một số Tướng Lãnh cao cấp trong Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa mở một phiên hợp khoáng đại bàn thảo và đi đến
quyết định về Chức vụ Tổng Thống và chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng
Hòa . Vào thời điểm nầy có số một nhân sự tham dự đã nằm vùng thân
cộng đang khuynh đảo Quốc Hội . Ðến lúc 8 giờ 20 tối cùng ngày . Ðại
Hội Ðồng của Lưỡng Viện Quốc Hội đã thông qua cuộc đầu phiếu tín
nhiệm với con số 136 phiếu thuận và 2 phiếu chống đồng thuận buộc
trao chức vụ Tổng Thống cho ông Dương Văn Minh . Ðây là một việc làm
vi hiến .
8 . Ngày 28 tháng 4 năm 1975 . Tổng Thống Trần Văn Hương từ chức
Tổng Thống trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh . Vào buổi chiều
cùng ngày lễ bàn giao chức vụ đả được thực hiện .
2 . NHỮNG TRẬN CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
- KHÁNG TUYẾN PHAN RANG
Có 2 trận chiến : Trận chiến Tỉnh Phan Rang và Trận chiến Tỉnh Phan
Thiết . Nhắm mực đích phá vở kháng tuyến địa đầu của miền Nam . Khai
thông Quốc Lộ 1 chuyển quân vào lãnh thổ vùng III Chiến Thuật .
. Trận chiến Phan Rang . Từ ngày 4 đến ngày 16 tháng 4 năm 1975 thất
thủ .
. Trận chiến Phan Thiết . Từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 4 năm 1975
thất thủ
- KHÁNG TUYẾN LONG KHÁNH
Tỉnh Long Khánh là một vị trí chiến thuật then chốt về phía Ðông Bắc
thuộc lãnh thổ của Vùng III Chiến Thuật . Là khu vực trách nhiệm của
Sư Ðoàn 18 Bộ Binh . Chiến trường khai diễn từ ngày 7 đến ngày 21
tháng 4 năm 1975 . Long Khánh thất thủ . Những trọng điểm chiến trận
trên lãnh thổ Tỉnh Long Khánh như : Quốc Lộ 20 . Dầu Giây . Thị Xã
Xuân Lộc . Bảo Ðịnh .Ðịnh Quán . Mục Ðích khai thông tuyến đường
Quốc Lộ 1 để các đơn vị chủ lực và cơ giới tiến thẳng vào Thủ đô Sài
Gòn .
- KHÁNG TUYẾN NGOẠI VI THỦ ÐÔ SÀI GÒN
Lực lượng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa sau khi di tản ra khỏi khu vực
Tỉnh Long Khánh . Tái phối trí lực lượng thành lập kháng tuyến mới
từ ngày 22 tháng 4 năm 1972 . Tình hình chiến sự đã diễn biến đang ở
vào thời điểm nghiêm trọng nhất . Sau khi chiếm giữ toàn bộ Tỉnh
Long Khánh . cộng sản Bắc Việt tiếp tục mỡ những đợt tấn công vào
các khu vực phụ cận , nhằm đưa các đơn vị cộng sản áp sát vòng đai
bảo vệ Thủ đô Sài Gòn .
1 . Ngày 25 tháng 4 năm 1975 . Kháng Tuyến Tỉnh Bình Dương . Khu vực
trách nhiệm phòng thủ của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh . Thất thủ
2 . Ngày 26 tháng 4 năm 1975 . Kháng tuyến Tỉnh Phước Tuy ( Bà Rịa )
. Kháng Tuyến Long Thành . Kháng Tuyến Biên Hòa
3 . Ngày 28 tháng 4 năm 1975 . Căn Cứ Không Quân Biên Hòa . Kháng
Tuyến Trảng Bom . Kháng Tuyến Vũng Tàu .
4 . Ngày 29 tháng 4 năm 1975 . Tình hình Miền Nam Việt Nam nói chung
và tình hình chiến sự ở Vùng III Chiến Thuật nói riêng đã trở nên vô
cùng nghiêm trọng . Từ tháng 3 năm 1975 cho đến thời điểm hiện tại .
Sự sụp đỗ của Thể Chế Miền Nam đang diễn biến trong từng giờ . Từng
kháng tuyến bảo vệ lãnh thổ lần lượt tan vỡ . Trong tình huống hỗn
loạn . Một số giới chức lãnh đạo trong Chánh Phủ , một số Tướng , Tá
thuộc hàng ngũ lãnh đạo cao cấp trong Quân Ðội đã cùng gia đình an
toàn rời đất nước . Người dân Miền Nam là người ở lại làm con tin ,
những người chiến binh đã đỗ xương máu trên các kháng tuyến đang bị
bức tử . Rồi đây dưới chế độ độc tài khát máu của những con người
cộng sản , nhà tù lớn , nhà tù nhỏ sẽ mở ra , những người ở lại sẽ
vào trong đó , bức tường sắt sẽ khép kín đầy bóng tối . Hầu hết các
vị tướng lẵnh điều hành Bộ Tổng Tham Mưu đã rời nhiệm sở , cùng gia
đình di tản , đơn cử như : Ðại Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu
Trưởng , Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên Tham Mưu Trưởng Liên Quân ,
Trung Tướng Nguyễn Văn Minh Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô ,.. Cùng một số
rất đông các vị tướng , tá khác …
5 . Từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Chánh Phủ Hoa Kỳ đã
cho triển khai kế hoạch di tản với chiến dịch “ Operation Frequent
Wind “ . Kết hợp giữa các lực lương của Hải Quân Hoa Kỳ . Nhằm di
tản những đơn vị Hoa Kỳ và công dân Hoa Kỳ còn trú đóng trên lãnh
thổ Miền Nam . Di tản một số lượng lớn dân chúng Miền Nam .
6 . Về tình hình sinh hoạt của dân chúng : Một làn sóng di tản từ
các vùng phụ cận ồ ạt di chuyển vào Sài Gòn , thành phố đang trong
tình huống bỏ ngỏ vô cùng hỗn loạn . Một làn sóng di tản khác , từ
Sài Gòn cùng nhiều khu vực khác chưa bị cộng sản chiếm đóng , đã tận
dụng mọi phương tiện tìm đường ra khơi để được sự cứu giúp của các
chiến hạm của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ , đang túc trực trong nhiều khu
vực thuộc hải phận Miền Nam . Hoặc được các phi cơ trực thăng Hoa Kỳ
di chuyển từ một số địa điểm trong Thủ Ðô Sài Gòn ra các Hàng Không
Mẫu Hạm Hoa Kỳ , trong khuôn khổ chiến dịch di tản “ Operation
Frequent Wind “ .
- VÒNG ÐAI THỦ ÐÔ SÀI GÒN KHÁNG TUYẾN CUỐI CÙNG
1 . Từ nhiều ngày trước . Thủ Ðô Sài Gòn cùng các khu vực phụ cận
ngập chìm trong khói lửa , vì những trận mưa pháo kích của cộng sản
Bắc Việt . Toàn bộ lực lượng tham chiến áp sát kháng tuyến Thủ Ðô
Sài Gòn , chuẩn bị cho những đợt tấn công sau cùng để đi đến chiến
thắng . Về phía Việt Nam Cộng Hòa . Tại kháng tuyến các đơn vị phòng
thủ củng cố phòng tuyến , chuẩn bi cho trận chiến cuối cùng trong
tình huống tuyệt vọng .
2 . Ngày 29 tháng 4 năm 1975 . Trong lúc tình hình sinh hoạt tại Thủ
Ðô Sài Gòn diễn ra vô cùng hỗn loạn . Cộng sản Bắc Việt bắt đầu điều
động lực lượng tấn công vào các khu vực kháng tuyến bảo vệ Sài Gòn .
Nhằm mục đích mở các hướng tấn công vào Thủ Ðô Sài Gòn .
. Tại Kháng Tuyến Củ Chi . Cộng sản Bắc Việt điều động lực lượng mợ
cuộc tấn công ác liệt vào các dơn vị phòng thủ thuộc Sư Ðoàn 25 Bộ
Binh . Ðến chiều tối phòng tuyến bị phá vỡ, lựïc lượng Sư Ðoàn 25 Bộ
Binh tan rã .
. Vào buổi sáng . Lực lương cộng sản đã chiếm giữ khu vực cầu Nhị
Thiên Ðường . Chặng đường từ Cần Ðước về Chợ Lớn đã bị cộng sản đóng
chốt .
. Khoàng 10 giờ tối . Lực lượng cộng sản có chiến xa yểm trợ , xâm
nhập khu vực tuyến phòng thủ của Trung Tâm Huấn Luyện Sư Ðoàn 5 Bộ
Binh , di chuyển về hướng Thủ Ðô Sài Gòn .
. Tại Kho Ðạn Thành Tuy Hạ . Cộng sản Bắc Việt liên tục mở nhiều đợt
pháo kích vào các khu vực tổn trử đạn dược gây nhiều tiếng nổ lớn và
hỏa hoạnï , phần lớn kho đạn bi phá hủy .
. Tại khu vực kháng tuyến Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung , cầu
Tham Lương , Bình Quới , Bà Quẹo , Ngã Tư Bảy Hiền : Do các đơn vị
Nhảy Dù phòng thủ , đã nổ lực ngăn chận hữu hiệu sức tiến quân của
các đơn vị cộng sản vào trung tâm Thủ Ðô Sài Gòn.
. Tại vòng đai phòng thủ của Bộ Tổng Tham Mưu . Một Chiến Ðoàn của
Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã phản
công chận đứng được sự xâm nhập của các đơn vị cộng sản . Ðến 10 giờ
sáng đã đẩy lui lực lương cộng sản , phá hủy 6 chiếc chiến xa T. 54
.
3 . CUỘC DI TẢN “ OPERATION FREQUENT WIND “
Chiến Dịch “ Operation Frequent Wind “ do Chánh Phủ Hoa Kỳ thực hiện
trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam . Từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 4 năm
1975 . Ðịa Ðiểm là Thủ Ðô Sài Gòn . Nhằm mục Ðích : Di tản nhân viên
Sứ Quán Hoa Kỳ , các cố vấn quân sự và công dân Hoa Kỳ . Mở hành
lang di
tản nhân đạo cho một số dân chúng Miền Nam . Ðơn vị tham dự là lưc
lượng “ Task Force 76 “ của Hải Quân Hoa Kỳ .
1 . Ngày 29 tháng 4 năm 1975 . Ở 2 địa điểm . Tại khu vực “ DAO
Compound “. Từ buổi trưa cho đến buổi chiều các đội trực thăng CH.53
di tản được : 395 người Hoa Kỳ và khoảng 4.000 người Việt Nam . Ðến
23 giờ tối cuộc di tản kết thúc . Tại Tòa đại Sứ Hoa Kỳ . Thành phần
di tản được di chuyển đến “ DAO Compound “ , để từ đây trực thăng di
chuyển ra Ðệ Thất Hạm Ðội .
2 . Ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Tại khu vực Toà Ðại Sứ Hoa Kỳ . Từ 3
giờ 45 sáng . Chỉ di tản người Hoa Kỳ . Ðến 7 giờ 53 phút sáng cuộc
di tản kết thúc .
B . NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 NGÀY CUỐI CÙNG
CỦA THỂ CHẾVIỆT NAM CỘNG HÒA MIỀN NAM
1 . NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 .
1 . Tại các kháng tuyến bảo vệ Thủ Ðô Sài Gòn . Các lực lượng phòng
thủ như : Sư Ðoàn 5 Bộ Binh , Sư Ðoàn 18 Bộ Binh , Lữ Ðoàn 3 Thiết
Kỵ , các đơn vị thuộc Sư Ðoàn Nhảy Dù , các đơn vị thuộc Sư Ðoàn
Thủy Quân Lục Chiến , các đơn vị thuộc Binh Chủng Biệt Ðộng Quân ,
Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù , cùng một số đơn vị quân sự khác … Sẵn
sàng tại vị trí chiến đấu .
. Trong thời điểm nầy . Cộng sản Bắc Việt mở từng đợt mưa pháo kích
với đại bác 130 ly và hỏa tiển 122 ly vào các vị trí trọng yếu trong
Thủ Ðô Sài Gòn . Những đợt pháo kích nầy đã gây nhiều thiệt hại về
vật chất và nhân mạng cho cư dân trong Thủ Ðô Sài Gòn .
. Vào khoảng 7 giờ sáng . Cuộc di tản của Chánh Phủ Hoa Kỳ thực hiện
trong chiến dịch “ Operation Frequent Wind “ kết thúc . Làn sóng
người di tản vẫn tiếp tục ở nhiều nơi khác bằng tất cả mọi phương .
Thủ Ðô Sài Gòn trong tình huống hỗn loạn , ngoài tầm kiểm soát của
các lực lượng bảo vệ Thủ Ðô . Những tổ chức nằm vùng của cộng sản
bắt đầu công khai hoạt động trên khắp đường phố
2 . Có những cuộc giao chiến cuối cùng tại một số vị trí cửa ngõ đi
vào Trung Tâm Thủ Ðô Sài Gòn đó là : Tại khu vực Ngã Tư Bảy Hiền của
các chiến sĩ thuộc Sư đoàn Nhảy Dù . Tại khu vực Bộ Tổng Tham Mưu
của các chiến sĩ thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù . Tại khu vực Tân
Cảng Sài Gòn của một số chiến sĩ Nhảy Dù cùng các đơn vị khác trên
đường triệt thoái .
. Vào lúc 10 giờ 15 sáng . Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho các
đơn vị Quân Ðội Việt Nam
Cộng Hòa ngưng chiến , hạ vũ khí chờ bàn giao ... Từ vị trí kháng
tuyến , các đơn vị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã phá hủy vũ
khí , trang thiết bị , rời vị trí , hầu hết không có đơn vị nào chờ
bàn giao theo như ông Dương Văn Minh tuyên đọc trên hệ thống đài
phát thanh .
. Vào lúc 11 giờ 30 . Chiến xa cộng sản Bắc Việt bao vây Dinh Ðộc
Lập . Ông Dương Văn Minh cùng Bộ Tham Mưu đã bị lực lượng cộng sản
quản thúc tại Dinh Ðộc Lập .
3 . Trong thời điểm ngày 30 tháng 4 năm 1975 : Một số Tư Lệnh Chiến
Trường đã lần lượt tự sát :
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam Tư Lệnh Quân đoàn IV , Thiếu Tướng Phạm
Văn Phú Tư Lệnh Quân Ðoàn II , Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng Tư Lệnh Phó
Quân Ðoàn IV, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Sư Ðoàn Sư Ðoàn 5 Bộ
Binh , Chuẩn Tướng Trần Văn Hai Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh . Cùng
thời điểm có Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long tự sát dưới
chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến đối diện với toà nhà Quốc Hội .
4 . Cũng trong tháng 4 năm 1975 . Trên các chiến trường , trên những
kháng tuyến cuối cùng thuộc 4 Vùng Chiến Thuật đã có rất nhiều chiến
sĩ các cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu đến giờ phút
sau cùng đã âm thầm tự sát để giữ khí tiết , không đầu hàng kẻ thù .
5 . Sau ngày 40 tháng 4 năm 1975 . Lãnh thổ Vùng IV Chiến Thuật lần
lượt bị lực lượng cộng sản Bắc Việt chiếm giữ .
2 . SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975
Ngay sau khi cưởng chiếm toàn bộ lãnh thổ Miền Nam . Cộng sản Bắc
Việt áp đặt ngay chế độ xã hội chủ nghĩa lên mọi sinh hoạt trong đời
sống của dân chúng miền Nam . Hủy diệt tất cả những gì của thể chế
Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam trong mọi lãnh vực . Giống như đã từng áp
dụng trên lãnh thổ miền Bắc sau năm 1954 . Có những dấu ấn đã trở
thành vết thương hằn thật sâu đặm trong lòng dân chúng miền Nam , đó
là :
1 . Trại tù cải tạo lao động khổ sai cộng sản đã thiết lập để lưu
đài quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và viên chức chánh quyền
miền Nam .
2 . Khu kinh tế mới lưu đài thành phần dân chúng có liên quan đến
chính quyền miền Nam cùng các thành phần tử bản và tiểu tư sản.
3 . Hành trình tìm tự do vượt thoát khỏi ngục tù cộng sản của dân
chúng cả ba miềm . Năm 1954 gần một triệu đồng bào miền Bắc chạy
trốn chế độ cộng sản , hành trình di cư được xác định rõ ràng nơi
đến là miền Nam , vẫn là trên quê hương . Còn lộ trình vượt biên từ
sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho đến hằng chục năm sau . Trên đường
bộ xuyên qua rừng núi hay trên biển cả mênh mông muôn trùng sóng gió
. Dù cho không biết được sẽ đến nơi nào . Nhưng đã có hằng triệu
người ra đi , bao nhiêu người đã chết trong rừng sâu , hằng trăm
ngàn người đã chết trên đại dương , trên các trại tị nạn … Một cuộc
bỏ phiếu hào hùng của người dân Việt Nam đã kiên định lập trường
không bao giờ chấp nhận chế độ cộng sản , nếu trụ đèn biết đi thì
trụ đèn cũng sẽ vượt biên chạy trốn cộng sản .
4 . Một nước Việt Nam bị thoái hóa , một xã hội Việt Nam băng hoại
vể mọi mặt .
C . TỪ THÁNG 4 NĂM 1975 ÐẾN THÁNG 4 NĂM 2015
40 NĂM QUỐC HẬN
Thời điểm ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã trải qua đúng 40 năm . Có
những điểm quan trọng cần phải xác định :
1 . Vì sao người Việt Nam tị nạn cộng sản ở hải ngoại và người Việt
Nam không cộng sản ở quốc nội vẫn còn gọi là ngày quốc hận ? Từ một
nhận thức ngắn gọn nhưng vô cùng sâu sắc , có thể xác định : Ngày 30
tháng 4 năm 1975 là một điểm thời gian kết thúc một cuộc chiến đau
thương sau 20 năm nhuộm đầy máu và nước mắt . Gần năm triệu người
dân vô tội của cả hai miền Nam và Bắc đã
thương vong . Tiếp theo là 40 năm qua sau ngày cưởng chiếm miền Nam
, hơn chín chục triệu người Việt Nam ở quốc nội đã sống quằn quại
trong gông cùm cộng sản . Ðảng cộng sản Việt Nam là đối tượng đề
toàn dân Việt Nam oán hận , mà khi dân tộc Việt Nam uất hận thì
chính là quốc hận , ngày nào đảng cộng sản cò tồn tại trên quê hương
, thì ngày quốc hận vẫn còn tồn tại trong lòng dân tộc , đây là một
điều khẳng định .
Nếu tìm hiểu những biến đã xảy trên dòng chiến sử , thì nỗi quốc hận
trong lòng người dân Việt Nam , không phải chỉ đơn thuần đóng khung
vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Mà là một chuỗi ngày quốc hận được
trải dài . Khởi điểm từ ngày 20 tháng 7 năm 1954 với Hiệp Ðịnh
Genève chia đôi lãnh thổ Việt Nam , dòng sông Bến Hải là dấu ấn của
những ngày quốc hận chảy trên từng trang chiến sử . Tiếp đến là từ
ngày 27 tháng 1 năm 1973 với Hiệp Ðịnh Paris , dòng sông Thạch Hản
thay cho dòng sông Bến Hải , thi hành ngưng bắn trong tình huống “
da beo “ , lãnh thổ Miền Nam coi như đã mất khoảng 50% trong tay
cộng sản Bắc Việt . Những nỗi quốc hận càng trở nên sâu đặm , đối
tượng không phải chỉ là đảng cộng sản Việt Nam và khối cộng sản quốc
tế , mà còn là những siêu cường trong khối dân chủ tự do là những
thế lực đã bức tử dân tộc Việt Nam , từng bước đẩy nước Việt Nam về
phía cộng sản .
2 . Ngày 30 tháng 4 năm 1975 . Chính là một móc điểm để dân tộc Việt
Nam nhận thức được một cách rõ ràng về bản chất của đảng cộng sản
Việt Nam . đó làømột loài quỷ đỏ khát máu , không có nhân bản ,
chuyên lừa đảo , lúc nào cũng nói dối … Từ năm 1945 đến năm 2015 .
Cộng sản Việt Nam đã có khoảng thời gian 70 năm gieo bao tang tóc
trên quê hương . Khi đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền về “ thiên
đường xã hội chủ nghĩa” , thì phải hiểu phía sau ngưởng cửa thiên
đường đó là một ngục tù tăm tối . Những ai đang có ý định bước vào
thì hãy tỉnh thức dừng lại . Những ai đã từ ngục tối đó bước ra ,
thì chớ nên quay lại , dẹp bỏ những ý đồ manh động , đừng ngu dại
làm những kẻ nằm vùng là cánh tay nối dài cho đảng cộng sản Việt Nam
.
3 . Nhiều năm gần đây , trong cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại ,
có những thành phần lên tiếng kêu gọi “ hòa hợp hòa giải dân tộc” .
Thiết nghĩ đây chỉ là những thành phần cộng sản Việt Nam hoạt động
nằm vùng ở hải ngoại , phát động phong trào để đánh lừa những người
nhẹ dạ hoặc chưa hiểu gì về bộ mặt thật của cộng sản . Ðây là những
chiến dịch được khơi nguồn để đánh phá cộng đồng người Việt Nam tị
nạn cộng sản . Chỉ là một trò lừa bịp gần giống như cộng sản Việt
Minh đã áp dụng trong thời điểm trước và sau năm 1945 , kêu gọi và
lợi dụng lòng yêu nước của dân chúng trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp . Người công dân Việt Nam sống với tinh thần quốc gia
dân tộc chân chính không chấp nhận cộng sản , dù ở hải ngoại cũng
như ở trong quốc nội , đã trải qua quá nhiều kinh nghiệm sống , đã
hiểu biết rất rõ ràng về những thủ đoạn của cộng sản . Với tinh thần
sống của dân tộc không có sự phân hóa , không có sự khác biệt tư
tưởng , không có sự tranh chấp , tất cả cùng hướng về sự tồn vong
của Tổ Quốc , thì không cần đến sự hòa hợp hòa giải .
4 . Và đối với sinh hoạt của thể chế quốc gia , cộng sản Việt Nam
chỉ là một đảng phái chính trị , lại càng không phải là đối tượng có
đủ tư cách để nói chuyện hòa hợp hòa giải với cộng đồng người Việt ở
hải ngoại . Mà chính đảng cộng sản Việt Nam , cần phải nhận tất cả
sự sai lầm ở vai trò tay sai cho cộng sản quốc tế , nhận tất những
tội lỗi đã bán nước, sát hại dân lành mà họ đã gây ra trong suốt
cuộc chiến 30 năm , để hòa giải và nhận lấy lòng bao dung của toàn
dân ở hai miền nam bắc . Ðiều cần thiết , thực tế đảng cộng sản Việt
Nam phải làm :
. Phải hòa giải với thân nhân và gia đình của hơn hai trăm ngàn nạn
nhân đã bi cộng sản đấu tố ở miền Bắc .
. Phải hòa giải với hằng triệu gia đình của những thanh niên miền
Bắc đã tử vong trên chiến trường miền Nam .
. Phải hòa giải với thân nhân và gia đình của các nạn nhân đã bi lực
lượng cộng sản sát hại ở quận Ðồng Xoài năm 1965 , ở Sài Gòn và Huế
vào Tết Mậu Thân năm 1968 . Ở thành phố Quảng Trị và trên đại lộ
kinh hoàng Quốc Lộ 1 , ở thành phố Kontum và ở Thị Xã An lộc năm
1972 .
. Phải hòa giải với thân nhân và gia đình của các nạn nhân đã bị
cộng sản sát hai trên đường di tản ở Vùng I , Vùng ÌI và Vùng III
Chiến Thuật vào tháng 4 năm năm 1975 .
. Phải hòa giải với thân nhân và gia đình của khoảng bốn trăm ngàn
thuyền nhân đã chết ở biển cả trên hành trình vượt thoát chế độ cộng
sản .
. Phải hòa giải với người dân đã và đang bị đảng cộng sản bạo ngược
cướp nhà cướp đất .
. Phải hòa giải với những tù nhân đã bị đảng cộng cộng sản đoạ đày
vùi dập khi biểu tỏ lòng yêu nước chống lại hành động xâm lược của
Trung Quốc .
. Phải hoà giải với những thương phế binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
ở quốc nội đã bị đảng cộng sản Việt Nam phân biệt trong đối xử vùi
dập tàn nhẫn suốt 40 năm qua .
Ðảng cộng sản Việt Nam phải chân thành nhận lỗi lầm , đừng tiếp tục
nói láo , đừng tiếp tục lừa dối dân tộc . Chiêu bài mị dân : “ Nhân
dân làm chủ . Ðảng lãnh đạo . Nhà nước quản lý “ đã lỗi thời Ðảng
công sản việt Nam phải tự giải tán chế độ , trả lại quyền làm chủ
đất nước cho toàn dân , với sự ăn năng chân thành trở về hoà hợp
chung sống trong vòng tay của dân tộc . Ðây là con đường duy nhất để
sống còn mà những người cộng sản có thể lựa chọn .
5 . Cộng sản Bắc Việt thành công trong kế hoạch xâm lược Miền Nam
Việt Nam , áp đặt một thể chế độc tài toàn trị , độc đảng , bán nước
hại dân , cho nên chỉ là tội đồ của dân tộc . Thiết nghĩ cần có sự
phân định rõ ràng :
1 / Cộng sản Bắc Việt đã ngu xuẩn làm tay sai cho cộng sản quốc tế .
Thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam gần 20 năm , dân tộc
điêu linh , quê hương tan nát . Một quá khứ đau thương cùng những
tội ác mà họ đã gây ra thật khó phai mờ trong lòng người Việt Nam .
2 / Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tự vệ chiến đấu suốt 20 năm để bảo vệ
lãnh thổ . Nhưng đã bị người bạn đồng minh Hoa Kỳ bức tử , vì quyền
lợi của đất nước Hoa Kỳ . Họ đã áp đặt giao Miền Nam cho cộng sản .
Ðây là một bài học vô cùng đau đớn mà dân tộc Việt Nam phải trả một
giá quá đắc bằng xương máu của hơn ba triệu người . Trong suốt cuộc
chiến 30 năm , từ 1945 đến 1975 bởi một hiểm họa duy nhất là “ chủ
nghĩa cộng sản “ . Từ đây có thể rút ra một bài học về “ lòng tin
cẩn và sự thành tín “ trong lãnh vực chính trị đầy man trá, không có
nhân bản .
3 / Một bài học quý giá cho những thế hệ mai sau là : tự lực tự tin
nơi chính mình trong tinh thần đoàn kết của dân tộc . Sau ngày cộng
sản cưởng chiếm miền Nam , về mặt nổi , những đối tượng đã bức hại “
giao “ miền Nam cho cộng sản Bắc Việt là Chánh Phủ của Nixon trong
đó có Kissinger và lưỡng viện Quốc Hội Kỳ . Còn có một đối tượng thứ
ba tiềm ẩn đã điều khiển hai đối tượng nêu trên , đó nhóm “ tài
phiệt “ luôn khuynh đảo chính trường Hoa Kỳ . Họ đã đánh đổi sự sống
của mấy chục triệu dân chúng miền Nam để lấy một thị trường kinh tế
với hơn một tỉ người . Vì nguồn lợi ích cho đất nước Hoa Kỳ họ đã
bất chấp thủ đoạn , không nghĩ đến hậu quả đã để lại trong suốt 40
năm qua .
Từ sách lược nầy , Chánh Phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu phạm phải một sai lầm
, ồ ạt đầu tư kinh tế , đưa kỷ thuật công nghệ vào lãnh thổ Trung
Quốc để có cái lợi ích trước mắt . Nhưng họ đã quên một điều là việc
làm của họ đã giúp cho cộng sản Trung Quốc hồi sinh và vươn mình để
trở thành một cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới . Sau bốn
thập niên Trung Quốc đang trở thành một đối thủ hàng đầu của Hoa Kỳ,
sách lược “ củ cà rốt và cây gậy “ chính giới Hoa Kỳ thường sử dụng
đã có hậu quả phản tác dụng . cộng sản Trung Quốc đang ứng dụng sách
lược nầy trên một số quốc gia kém phát triển với ý đồ xâm lược từng
bước … Riêng với đảng cộng sản Việt Nam , sau hai thập niên tái lập
bang giao , người Hoa Kỳ đã trở lại Việt Nam nhằm mục đích lợi ích
kinh tế , có thể nói là đã giúp cho chế độ cộng sản Việt Nam có được
sự sống và tiếp tục tồn tại . Xuyên qua những hành động của Chánh
Phủ Hoa Kỳ cùng khối tài phiệt Hoa Kỳ , cho thấy rõ ràng thái độ
hành xử của họ đã đổi màu sau khi đệ Nhị Thế Chiến kết thúc , sách
lược của họ là lợi ích kinh tế cho đất nước họ , vấn đề ý thức hệ
chỉ là thứ yếu . Một kinh nghiệm thực tiển là không nên tin vào lời
hứa suông của những nhân vật chính trị trên chính trường . Trên hành
trình quang phục quê hương , xóa sạch thể chế cộng sản , thì phải tự
tin và tự lực vào tiềm năng và sức mạnh của chính dân tộc Việt Nam .
Có thể nhận thấy rõ một điều cơ quan Liên Hiệp Quốc chỉ là một tổ
chức chỉ để hợp bàn thế sự , cứu trợ nhân đạo chứ không có quyền hạn
tài phán để giải quyết trong việc ổn định trật tự thế giới . Hiện
tại Hoa Kỳ , cộng sản Trung Quốc và cộng sản Việt Nam đang ràng buộc
nhau trong vấn đề lợi ích kinh tế . Hình như Hoa Kỳ và Trung Quốc
đang triển khai giải pháp khoanh vùng trên khu vực Thái Bình Dương .
Thiết nghĩ tương lai của tổ Quốc Việt Nam phải do chính dân tộc Việt
Nam quyết định .
Trên trận tuyến ý thức hệ . Cần giữ vững vị trí , giữ vững lập
trường của người quân nhân . Trong tương lai , dù phải trải qua
nhiều thế hệ tiếp nối , niềm mong ước và mục đích sau cùng của dân
tộc là đảng cộng sản , những con người lãnh đạo ngu xuẩn nhiều tham
vọng đã thống trị đất nước bằng chủ thuyết cộng sản , phải biến mất
trên lãnh thổ Việt Nam . Thiết nghĩ đảng cộng sản Việt Nam giống như
một loại cỏ dại độc hại , không bao giờ có sự chuyển hóa thật sự ,
vì nếu có sự chuyển hóa thì cũng chỉ ở một mức độ nào đó để đánh lừa
quần chúng , thực chất cái gốc vẫn còn , bản chất vẫn còn , muốn xóa
sạch hiểm họa nầy không ngoài giải pháp triệt tiêu tận gốc . Trong
cuộc chiến ở miền Nam , có một chứng cứ rất rõ ràng là trên những
vùng có giao tranh hoặc những ở những khu vực cộng sản chiếm đóng ,
cư dân bằng mọi phương cách , tìm đường vượt thoát di tản về hướng
có các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa chứ không hề đi đến những nơi cộng
sản đang chiếm đóng hoặc đi vào những mật khu trong rừng núi .
Nếu Chánh Phủ Hoa Kỳ không liên kết với cộng sản quốc tế , thật tâm
giúp dân tộc Việt Nam xây dựng đất nước sau ngày thực dân Pháp trao
trả độc lập . Khối cộng sản quốc tế không có tham vọng nhuộm đỏ khu
vực Ðông Nam Á . Thì đảng cộng sản Việt Nam không bao giờ tồn tại .
Không có cảnh
đất nước Việt Nam bị chia đôi vào năm 1954 . Ngày 19 tháng 1 năm
1974 trong trận hải chiến ở Hoàng Sa, lưc lượng Hải Quân Hoa Kỳ hiện
diện trong khu vực không hổ trợ , không cứu trợ những chiến binh
Việt Nam Cộng Hòa lâm nạn trên biển cả , phải chăng họ đang âm thầm
bàng giao lãnh hải và hải đảo của miền Nam cho Trung Quốc . Rồi tiếp
theo đó là toàn bộ lãnh thổ Miền Nam cho cộng sản Bắc Việt để có
ngày quốc hận 30 tháng 4 năm 1975 . Cuộc cờ định mệnh đã xảy ra .
Những trang bi hùng sử nhuộm đầy máu và nước thuộc về quá khứ của
quê hương vẫn còn đó . Ðây là những bài học kinh nghiệm vô cùng quý
giá trong thời điểm hiện tại , để làm nền tảng xây dựng tương lai .
Tổ Quốc Việt Nam vẫn còn đó … Người Việt Nam tị nạn lưu vong sẽ có
một ngày hồi hương ...
Atlanta - Tháng 1 năm 2018
MX TRẦN VĂN HÊN
( TĐ5 & TĐ9 & Đại Đội Duyên Hải TQLC )
(SVSQ KHÓA 17 VÕ KHOA THỦ ÐỨC )
Cách sử dụng "I"
và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi
& ngã" trong
tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngã
Gạch nối trong
tiếng Việt
Xưng hô tiếng
Việt...
55 năm rồi mới gặp!
“Người
Việt” giết tiếng Việt!
Hy sinh và mờ nhạt
Họp mặt “Về Đây Anh” và Cọp Biển
Về đây anh 2018
Một Góc
Nhìn - Đại Hội Về Đây Anh 2018
Dư Âm Ngày Đại Hội
2018
Vết thương 43 năm
Happy
Father’s Day - Cha ơi! Con rất hãnh diện về Cha
Biệt
Cách Dù tại Cổ Thành Quảng Trị năm 1972
Lỗi tại tôi
Những
cấp chỉ huy đáng Kính... Có người bạn đáng “Kinh”
Nói
về tuổi trẻ sau 42 năm tỵ nạn...
Chạnh lòng
tháng Tư
Cuộc tình 50 năm
Một cuộc cờ đệnh
mệnh
Những
chuyện “Phiếm” về cs Việt Nam
Cuộc trò
chuyện bất ngờ
Thư Hậu phương
Nhắc chuyện xưa
Bạn đường
Một chuyến đi Oklahoma
Thăm lại
“Mái Nhà” xưa
Hãy kể cho tôi
nghe
Young Marines trong ngày Tưởng Niệm 30/04/17
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Sớ Táo Quân
TQLC - Đinh Dậu 2017
Đọc "Chặng Đường Nối Tiếp"
NT Nguyễn
Thành Yên
NT Hoàng Lãm
Cái chào của Niên
Trưởng
Chuyến
tản
thương cuối cùng
Tháng Ba chôn súng
Các NT TQLC
TQLC mà bà
không biết sao?
Người
Y-Tá chiến trường
Thôi ! Mình
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Một thời để nhớ
Tìm cha
Biệt đội Sóng Thần
Lão lượm “Ve Chai”
Trâu Điên Và Cố Vấn
Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...
Trâu
Điên and Cố vấn Reunion 46 years later (1969-2015)
Trung đội 2 Tiểu Đoàn 7 TQLC và những ngày cuối cùng
Quận
Trưởng Quận Triệu Phong, Quảng Trị - Chuẩn Úy Lê Đình Lời
Người lính tiên
phuông
Anh hùng bất tử
40 Năm tỵ nạn... Nhìn lại
đoạn đường
Người
Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Mùa
Football năm nay sẽ không còn...
Đoàn 76 tù binh
Những con
Quạ Đen trên nóc nhà xác
Mảnh đời tị nan tại Đức
Người lính già không bao giờ chết
Cơn mưa hạ Atlanta
2014
Cánh Đại Bàng còn lại
giữa vùng trời TQLC
Vui buồn đời
lính -Tình đồng đội
Nghĩa cử cao quý
Rũ áo thênh thang
30-4 những
giờ phút sau cùng của một người Trung đội trưởng TQLC
Người Việt Viết
Tiếng Việt. "Người Giệc Giết" Tiếng Việt
Chỉ còn là kỷ niệm
Chuyện về
cột cờ đầu tiên tại Little Saigon
Nhớ Chú Cảo
Chúc mừng Trường Can
Chuyện ngày xưa…thật xưa
Viết cho con gái Cao
Xuân Huy
Những ngày vui ở
Nam Cali
Dòng sông êm đềm
Điệp khúc buồn
Cháu Ông Nội, Tội
Bà Ngoại!
Nợ Mẹ hai tiếng
yêu thương
Nỗi buồn tháng Tư
Cuộc hội ngộ của Sĩ
Quan TQLC/VNCH và em bé gái mà Ông đã cứu 41 năm trước...
Những cái chết
thầm lặng
Dục Mỹ, lò luyện thép
Người hát rong
nhạc vàng
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
Nụ cười xinh
Những ngày xưa thân ái
Quê hương bỏ lại
Biển vẫn đợi chờ
Buồn vui Đại Hội 2012
tại Oregon
Kỷ Niệm Ngày QL.VNCH.
19/6 - Người lính Việt Nam Cộng Hòa sau 37 năm nhìn lại...
Nỗi lòng người
lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Khóc bạn
Người Lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Ông Cháu tựa má đầu
Mùa xuân trên
đỉnh Torkham
Chiến thắng đầu Xuân
Một thời để yêu, một
thời để nhớ
Tuổi 70… Chán mớ đời!
Chút ân tình rất đỗi
mong manh
Người còn nhớ
hay người đã quên
Cao Xuân Huy -
Chuyện chưa ai kể
Nhớ về Cao Xuân Huy
“Tháng Ba gãy súng”
Chút ánh nắng mặt trời trong mùa thu Oregon
Dòng sông tuổi
nhỏ
Vui buồn đời
lính 1 -
2 - 3
- 4 -
5
Dòng
thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
Huyền
thoại chiến sĩ Mũ Xanh
Cuộc chiến
không dừng ở đây
Nỗi lòng
biết ngỏ cùng ai?
Chiêu hồn Quái
Điễu
Thiên
hùng ca dựng một ngọn cờ
Thuận
An, hành quân triệt thoái
Thư tình viết muộn
Người lính miền Nam
Thăm lại Quảng
Trị – Khe Sanh & chiến sĩ vô danh
Hãy thắp cho
anh một ngọn đèn
Tôi đi lính...
Giờ phúc
sau cùng của người Trung Đội Trưởng
Đôi bờ chiến tuyến
Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Thoáng nhớ ngậm ngùi
Mối tình Sơn Khê
Hai anh em tên Cờ,
họ Việt Nam Cộng Hòa
Hạt bụi vĩ đại
Thư Khu Bưu Chính (KBC)
Hai hình ảnh, một
cuộc đời
Vé Đây! Vé Đây!
Tháng
Ba buồn thiu, tháng Tư gãy súng
Bà Mẹ
Quê
Ôm M60, M79 đánh ghen
Nghe Nhạc
Trang Thủy