Thơ

Trang thơ Nguyễn Minh Châu

Tuổi trẻ Việt Nam
Xuân nhớ đến Mẹ
Người Lính Già (Đại Bàng Tango)
Mùa Giáng Sinh xưa
Nhớ về chốn cũ
Nhớ nhà (Nhớ ngày ấy)
Saigon của tôi
T́nh sen
Mănh Hổ “Tây Đô”
Kư Ức khó quên (Ngày tàn cuộc chiến)
Người lính già (Cọp nhớ rừng)
Khi tôi chết (Tâm sự người lính già)
T́m phương giác
Gục đầu xuống
Đêm trăng nhớ bạn
Người lính và nỗi nhớ
Hương xưa của tôi
Người lính VNCH
Huyền thoại mưa Sài G̣n
Vịt Tiềm
Thắp nhang cho bạn
Tấm thẻ bài
Thăng trầm
Hoa nước mắt
Khi tôi đi
Độc ẩm
Nh́n đất mẹ
Nợ núi sông đă trả, chỉ c̣n nợ em
Tận cùng nỗi nhớ
Một câu hỏi
Một thoáng suy tư
Mày hỏi tao
Bạc màu áo trận
Thơ - Đông Hương 1 - 2 - 3
Đồng đội
Quận Tư, xóm nhỏ
Người lính già (Cọp nhớ rừng)
Cảm xúc Tháng Tư Đen
Nhớ Bạn tuổi thơ
Tháng Tư hoài vọng
Nhớ Phá Tam Giang
Khi cha già cha sẽ về đâu??
Biển ấy, mùa này
Tháng Ba rồi ....
Một ngày và một đời TQLC
Buồn như một sớm trời không nắng
Huế xa rồi - Mai mốt về em nhé
Mê thư lính
T́nh khúc cho một người
Nỗi nhớ buồn hiu
D́u nhau đi cho hết....
Chùm thơ Đông Hương
Ta về
Ưu tư vận nước
Tưởng niệm 40 năm
Đêm ngủ tôi mơ
Tháng Tư lại đến nữa rồi
Cái chết của một tượng đá
Xuân Buồn
Anh sẽ đưa em về
Bức dư đồ
Tâm sự lính Mũ Xanh
Ngồi xuống đây
Hăy nhặt ǵum cha
Xin giữ
Mây tháng Tư
Xuân xứ người
Lời cho này anh
Giấc mơ tương lai
Cô giáo Tịnh Như
Nhớ Cao Xuân Huy
Bông hồng Hậu Nghĩa
Anh đi...
Chiều trên quê nội
Nội tướng của t́nh thương
30 tháng 4 - Sống và Chết
Với MX Sóng Thần một thuở...
Tháng Tư đen
Tao nợ mầy...
Pho tượng người lính...
Đôi nạng gỗ...
Tôi nợ anh...
Chùm thơ Áo Trắng 
Nhớ một chiều Xuân
Thơ của Trần Khoa Danh
Tâm sự người Thương Binh
Nhà xưa đă khép

 

 

 

 

 

 


Thăm Lại “Mái Nhà” Xưa

Captovan.

Người Việt Sống trên đất Mỹ đã, đang, sẽ đóng góp xây dựng những gì tốt đẹp cho quê hương mới, nhưng vẫn không quên những đồng hương kém may mắn nơi quê cũ, trong đó có các cựu quân nhân VNCH già yếu bệnh tật, nhất là các anh “thương binh” (tôi xin phép bỏ chữ “phế”).

Một trong những tổ chức được sự yểm trợ của đồng hương là Hội HO Cứu Trợ TPB do Lão Bà Hạnh Nhơn làm Hội Trưởng. Lão Bà vừa ra đi để lại niềm tiếc và thương cho nhiều người. Trong đó có đến 6 cơ sở tôn giáo, 40 các hội đoàn quân đội, 14 vị dân cử Liên Bang, Tiểu Bang CA và các nghị viên Garden Grove và Westminster.

Ngoài hội H.O và Bà Hội Trưởng có uy tín được nhiều biết đến thì còn rất nhiều các hội, nhóm hay cá nhân khác từ Saigon Nhỏ vẫn âm thầm nhớ về các anh ở Saigòn Lớn. Một trong những cá nhân đó là Hà Tiên. Hà Tiên đã ra đi ở Saigòn Nhỏ nhưng vẫn còn muốn trở về thăm đồng đội ở chiến trường xưa thì quả thật là hiếm có, anh làm ấm lòng đồng đội và là tấm gương cho những người còn ở lại. Xin mời độc giả theo dõi câu chuyện “Thăm Lại Mái Nhà Xưa” của Hà Tiên./.
***

-Thưa Chị Hà Tiên.
Sau khi chúng em tổ chức lễ tưởng niệm Hà Tiên xong thì em mơ thấy Hà Tiên bảo tụi em nên đi thăm “mái nhà xưa”, tức là mồ mả và những nơi đồng đội của Hà Tiên đã tử trận. Khi nào đi thì nhớ dẫn “ông thầy” đi theo. Vì vậy tụi em quyết định sẽ đi một chuyến, mang theo di ảnh của Hà Tiên. Số tiền chị gửi về sẽ dùng thuê xe và nhang khói, ai đi thì tự túc việc ăn ở..
Saigon 31/07/2016.
Kính thăm chị.
Đông Triều, thuộc cấp của Hà Tiên

***
Hà Tiên là ám danh đàm thoại truyền tin của Thiếu Úy Nguyễn Hữu Hào, Đại Đội Phó Đại Đội 4 (ĐĐ4) Tiểu Đoàn 2 TQLC, (TĐ2/TQLC). Anh đã vĩnh viễn từ giã gia đình và đồng đội tại Saigòn Nhỏ để bay về Saigòn Lớn, tham dự lễ tưởng niệm do các thuộc cấp tổ chức cho mình và từ đó Hà Tiên cùng một số anh em “thăm lại mái nhà xưa”. Mái nhà xưa là những căn hầm, những hố bom đạn, mồ mả và những nơi đồng đội tử trận ở chiến trường Huế-Quảng Trị.

Trước khi nói về Hà Tiên, tôi xin nói qua về ĐĐ4/TĐ2/TQLC.

Đây là một đại đội chiến đấu anh dũng như bất cứ đại đội nào khác của TĐ2 (Trâu Điên) nói riêng và Binh Chủng TQLC nói chung, điều đáng nói ở đây là các cấp chỉ huy của đại đội này chủ trương “thương cho roi cho vọt”, thuộc cấp nào “lạng quang” bước ra ngoài vòng kỷ luật thì lãnh đủ tình thương bằng roi của người cha, người anh trong gia đình chứ không bao giờ phải lãnh một tờ giấy phạt của một cấp chỉ huy.

“Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”, nghe lời dạy của cha anh thì lên người, con đường binh nghiệp không bị cản trở bởi những giấy phạt của cấp chỉ huy.

Tôi không biết lối sống gia đình của ĐĐ4 này có từ hồi nào, nhưng tôi nhận ra từ hồi Đại Đội Trưởng (ĐĐT) là Đại Úy Nguyễn Xuân Phúc. Xin nêu trường hợp cụ thể:

Sau 15 ngày trọng cấm, bị nhốt Quân Cảnh 202 vì tội “phạm thượng”, tôi bị đổi từ TĐ5/TQLC về ĐĐ4/TĐ2 tháng 4/1966. Khi đứng nghiêm trước ĐĐT là Đại Úy Nguyễn Xuân Phúc để trình diện, ông không nói một câu, mà phất tay ra hiệu cho tôi đi trình diện đại đội phó (ĐĐP) là Trung Úy Trần Văn Hợp. Tuy Hợp và tôi là bạn cùng khóa, nhưng hắn cũng có thái độ tương tự như ĐĐT, nói ngắn gọn:

-Đi tìm chỗ nghỉ rồi nhận lệnh sau.

Vừa về đơn vị mới mà bị đàn anh và đồng khóa hắt hủi, còn gì tủi thân cho bằng! Tôi ẩn mình vào một góc khuất, uất nghẹn nghĩ đến việc đào ngũ. Đúng lúc tôi xách ba-lô ra đi thì Thiếu Úy Nguyễn Quốc Chính xuất hiện, Chính là khóa đàn em của tôi, mời tôi điếu thuốc Ruby Queen rồi nói nhỏ:

-Anh đừng đi, họ thử anh đó.

Quốc Chính ám chỉ “họ” là ĐĐT Phúc và ĐĐP Hợp, hai người mà tôi đang ghét, nhưng trước ân tình của Chính, tôi thử ở lại xem họ sẽ làm gỉ tôi, “cùi rồi đâu sợ hủi”?

Cùi không sợ hủi, nhưng “họ” không phải là hủi mà là người rộng lượng, tôn trọng kỷ luật nên tôi bị khuất phục trước tấm lòng vị tha và nghệ thuật lãnh đạo của các anh.

Chỉ huy là chỉ tay 5 ngón ra lệnh cho thuộc cấp thi hành, còn lãnh đạo là xoa tay hỏi thăm sức khỏe và học hành của vợ con thuộc cấp, quan tâm tới đời sống gia đình họ, chàng nào lãnh lương xong không mang về cho vợ con mà đi cờ bạc, rượu chè, trai gái là bị “đánh đòn”, đó là “lối sống ĐĐ4” khiến thuộc cấp phải tâm phục khẩu phục.

Dù sau này anh Phúc và Hợp đều là Lữ Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, góp chiến thắng đem huy chương Dương Liễu thứ bẩy, thứ tám về cho TĐ2, nhưng cái tinh thần và “lối sống ĐĐ4” vẫn ở trong các anh, không bỏ anh em, các anh Phúc, Hợp, Chính đã ở cùng với đồng đội, hy sinh thay cho anh em.

Với “lối sống ĐĐ4”, Trung Úy ĐĐP Nguyễn Quốc Chính, thương đàn em mới ra trường gặp nhiệm vụ khó khăn, Chính đã xung phong thay thế nhiệm vụ cho đàn em Khóa 22 và Chính đã tử trận trên bờ kinh Cái Thia, Cai Lậy lúc 9 giờ sáng ngày 31/12/1967 trước mặt tôi.

Với “lối sống ĐĐ4”, Lữ Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc đã ở lại với thuộc cấp tới giờ phút cuối cùng: 6 giờ sáng 29/3/1975 bên bờ biển Non Nước Đà Nẵng, sau khi anh và tôi uống chung một ly café đắng, tôi lên tàu Hải Quân ra khơi, còn anh ngồi lại trên bờ để chờ thuộc cấp, thế rồi anh “nằm lại” mãi mãi nơi đây sau những trận hỏa pháo sấm sét của thần chết ...

Với “lối sống ĐĐ4”, Trần Văn Hợp và tôi chia nhau từng lon nước vo gạo trong ngục tù CS sau ngày “gẫy súng”, rung đùi ngồi cười khi nghe cai tù hăm dọa: “Những cái gọi là Cọp Ba Đầu Rằn, Trâu Điên thì cần phải trừng trị thích đáng”.

Thế rồi Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Trâu Điên là Thiếu Tá Trần Văn Hợp bị nằm lại vĩnh viễn nơi xó rừng miền Thượng Du Bắc Việt do một “tai nạn” khó hiểu.

Với “lối sống ĐĐ4” không bỏ đồng đội: Tháng 3/1975, trên đường lui binh, Long Hồ đã đem được xác của em ruột lên tàu HQ xong rồi anh quay trở lại bờ cùng đồng đội và thuộc cấp của anh.

Nay dù chiến tranh đã kết thúc hơn 40 năm, cựu Đại Đội Trưởng ĐĐ4 Long Hồ* (TX) làm đầu tàu đã cùng ĐĐP Hà Tiên Nguyễn Hữu Hào (CA) và Trung Đội Trưởng Đông Triều* (Phan Thiết) tiếp tục thực hiện “lối sống ĐĐ4” năm xưa.

Khởi đầu chỉ quanh quẩn vui buồn với nhau trong số anh em thuộc ĐĐ4/TĐ2 (Trâu Điên), dần dần tình anh em một nhà khiến các Trâu khác cùng tìm về “một chuồng” với nhau trong tinh thần: “Một con Trâu đau, cả đàn đau theo”.

(*Vì lý do tế nhị, tôi không nêu rõ tên, cấp bậc của Long Hồ và Đông Triều. Đồng thời xin nói thêm ở đây để tránh hiểu lầm: Long Hồ, Hà Tiên, Đông Triều thực hiện “lối sống ĐĐ4” đối với anh em còn ở trong nước chỉ với mục đích tìm lại đời sống gia đình, cùng họp mặt ngày đầu năm, ngày sinh nhật Binh Chủng, thăm hỏi giúp đỡ khi có người qua đời hoặc bệnh ngặt nghèo mà thôi, không ai cứu được cái nghèo. Vả lại, theo quy định của Tổng Hội TQLC thì mỗi quân nhân TQLC ở hải ngoại có bổn phận đóng vào quỹ Thương Phế Binh mỗi năm 100$. Vì thế Tổng Hội tự lo cho TPB/TQLC của chính mình, để giảm bớt gánh nặng cho Hội HO của Lão Bà Hạnh Nhơn).

Xin trở về nội dung chính: “Thăm Lại Mái Nhà Xưa” của anh linh Hà Tiên.

Thuở sinh thời, Hà Tiên Nguyễn Hữu Hào là một quân nhân xuất sắc, dù mới chỉ là thiếu úy, nhưng anh đã mang trên ngực Bảo Quốc Huân Chương, huy chương cao quý của quân đội. Ngoài các huy chương thường lệ, Th/Úy Hào còn được Phó Tổng Thống Trần Văn Hương ân thưởng “Biệt Công Bội Tinh” trong buổi tiếp các chiến sĩ xuất sắc nhân ngày Quốc Khánh 1/11/1972 tại Dinh Độc Lập, do thành tích diệt xe tăng VC bằng súng M72. Từ đó Hà Tiên Nguyễn Hữu Hào còn được thuộc cấp đăt thêm tục danh: “Ông Già M72”.

Trong bài viết này, chúng tôi xin phép không đề cập tới việc Th/Úy Hào đã dùng súng M72 để diệt xe tank VC như thế nào, đã diệt được bao nhiêu chiếc để cứu đồng đội, mang chiến thắng về cho ĐĐ4/TĐ2, chúng tôi chỉ xin nói về danh từ: “Ông Già M72”.

Theo quân phong quân kỷ trong quân đội, khi cấp dưới nói chuyện với cấp trên thì “Thưa Thượng Sĩ, thưa Đại Úy, thưa Thiếu Tá v.v...) và xưng “tôi”, nhưng nếu cấp chỉ huy nào được thuộc cấp mến phục qua tư cách thì được coi như cha, người lớn trong gia đình nên thuộc cấp thường gọi là “ông thầy, ông già”. “Ông thầy, ông già” luôn mang theo ý nghĩa thương yêu, che chở đàn em và đặc biệt là không bao giờ “cướp cơm chim” của thuộc cấp (tức không bao giờ tham nhũng).

Thiếu Úy Nguyễn Hữu Hào được thuộc cấp đặt cho tục danh “Ông Già M72” là do tài dùng súng M72 diệt “tank” VC và là bậc “thày” trong cách cư xử với cấp dưới.

Sau khi ĐĐP Th/Úy Hào qua đời tại Saigòn Nhỏ (USA) thì anh em ĐĐ4/TĐ2 tại Saigòn Lớn (VN) tập họp cùng dâng hương lên “Ông Già M72”. Tấm màn nhung đỏ trước bàn thờ có huy hiệu Tiểu Đoàn, Binh Chủng, di ảnh Hà Tiên và dòng chữ:

-“Ông Già M72 Nguyên ĐĐP ĐĐ4-TĐ2-TQLC”

Sau những năm dài “lao động là vinh quang” trong lao tù VC, Hà Tiên được định cư tại Little Saigon, USA, theo diện H.O 7.

Đúng nghĩa: “Trâu chậm uống nước đục” nên anh chị Hào, tuổi quá cao để tìm việc mà lại quá trẻ để hưởng nhàn nên đã mở một “quán nhỏ bên đường” Westminster (góc Euclid) với cái tên LAN HƯƠNG để mưu sinh qua ngày.

Khởi đầu là như vậy, nhưng “đất lành chim đậu”, Lan Hương quán trở thành tụ điểm sinh hoạt của đồng đội cũ, bạn bè xưa nên hầu như bất cứ Cọp Biển (TQLC) nào, từ anh cả Tư Lệnh đến chú em út, ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, mỗi khi về thủ đô tỵ nạn Little Saigon thì Lan Hương quán trở thành nơi tổ chức “đại hội, bỏ túi” của gia đình Cọp Biển. Từ Anh Cả Lạng Sơn (Tư Lệnh), anh Thứ Tango (TLP), đến các anh sáu (đại tá) Saigòn, Đồ Sơn, Cao Bằng, Tinh Châu, các anh năm, anh tư v.v.. đã từng nhiều lần ngồi quanh bàn tròn với ly trà, cafe Lan Hương.

Những lúc khách đông như vậy, chiếm hết ghế ngồi chỉ uống cafe, trà, “nhớ nhà châm điếu thuốc” thì chủ quán lỗ, nhưng Hà Tiên vẫn cười, vẫn cặm cụi châm thêm trà từ bình này sang bình khác. Nếu những buổi họp của Hội... ở nơi khác thì tham dự viên thưa thớt, nhưng nếu họp ở Lan Hương quán thì đầy đủ.

Vài chi tiết tôi ghi ra trên đây chúng tỏ tấm lòng của Hà Tiên đối với đồng đội ít ai có được, nhất là cuộc sống tha hương vất vả. Ngoài tình đồng đội thì Lan Hương quán hay tư gia Hà Tiên cũng là tổ ấm cho thế hệ thứ hai, gọi là YM (Young Marines) trưởng thành, YM Thu Hà trở thành nghị viên thảnh phố Garden Grove có sự đóng góp tinh thần và vật chất không nhỏ của “Ông Già M72”.

Ngày xưa bên chiến hào, anh em sống chết bên nhau, nay có chút cháo rau ở hải ngoại thì Hà Tiên không bao giờ quên cảnh cơ cực của thuộc cấp ở trong nước nên vẫn cứ “lá rách đùm lá nát”, nhưng điều mong ước nhất của Hà Tiên là làm sao có dịp trở về để cùng các em đi thắp nhang cho những đồng đội đã nằm lại rải rác khắp chiến trường xưa, nhưng mộng chưa thành thì anh ngã bệnh và qua đời tháng 7/2016. Trước khi nhắm mắt Hà Tiên còn trăn trối với chị là gửi về cho Đông Triều số tiền anh để dành cho chuyến đi để Đông Triều thực hiện nguyện vọng của anh, vì thế Đông Triều mới gửi thư cho chị Hà Tiên là sẽ thực hiện nguyện vọng của anh.

Xin cám ơn Long Hồ, Đông Triều đã cung cấp tài liệu và hình ảnh để tôi phổ biến hành trình của Hà Tiên cùng các đồng đội: “Thăm Lại Mái Nhà Xưa”
***
Hôm nay ngày 06/3/2017, chiếc xe Ford đời mới 2016 khởi hành đúng 4 giờ sáng lên đường chở theo khung hình của Hà Tiên cùng 8 anh chị em gồm có Th/Sĩ Rơi, Tr/Sĩ 1 Ngọc Ngà, Tr/Sĩ Phúc, Mũ Xanh (MX) Oanh, MX Hùng (4), MX Phước, MX Toàn (TPB) đến 7 giờ 30 sáng đă có mặt tại nhà Đông Triều (Phan Thiết), sau khi nghỉ ngơi ăn sáng là phải lên đường ngay để đón thêm 2 người nữa ngoài dự trù, đó là Th/Sĩ Nguyễn Đăng Thọ (Ninh Thuận), và MX Vương Công Danh (Đà Nẵng).

Băi biển Mỹ Khê, cách nay hơn 40 năm, sáng 29/3/1975, “Cuộc lui binh nghẹn ngào tức tưởi”, chúng tôi chia tay nhau mỗi người một ngả, nhưng lạ lùng thay, trong lúc chuẩn bị cho chuyến đi thì cả hai anh Thọ và Danh bất ngờ liên lạc được với tôi để xin tháp tùng vì các anh nói rằng nằm mơ thấy Hà Tiên ra lệnh cho các anh đi cùng chúng tôi để “thăm lại mái nhà xưa”. Không riêng hai anh Thọ và Danh, trên suốt dọc đường từ Phan Thiết ra Đà Nẵng chúng tôi còn nhận được nhiều điện thoại các anh em thuộc TĐ2 xin đi theo. Chuyến đi này chúng tôi chỉ thông báo và tổ chức cho một số anh em sống quanh vùng Saigon nhưng các anh sống rải rác dọc Quốc Lộ 1 đều biết vì các anh được Hà Tiên báo mộng, nhưng rất tiếc xe đã hết chỗ nên đành hẹn dịp khác.

Việc Hà Tiên báo mộng cho các anh thuộc về lãnh vực tâm linh, tin hay không là tùy người cùng tần số, làm sao giải thích những hiện tượng báo mộng này? Chúng ta chỉ cần quẹt-quet ngón tay lên cái cell phôn là có thể biết tất cả mọi chuyện quá khứ hiện tại trên thế giới, nhưng mấy ai hiểu được tại sao nó lại có thể như thế được? Nói theo kinh thánh thì: “Phúc cho những kẻ không thấy mà tin”, phúc cho anh em chúng tôi tin rằng Hà Tiên tuy đã đi xa, nhưng anh đang bay theo để yểm trợ chúng tôi để về thăm mái nhà xưa được thuân buồm xuôi gió.

Tới An Ḥa, Huế, thật bất ngờ lại có thêm Th/Sĩ Trần Sơn, thường vụ ĐĐ4 đang chờ chúng tôi, mặc dù anh em chưa một lần gặp lại sau 42 năm, nay “biết tin”.., anh cứ liên tục nôn nóng gọi phone theo dơi hành tŕnh của chúng tôi để cùng đi theo.

Con đường từ Huế ra Quảng Trị dường như ngắn lại so với ngày xưa khi chúng tôi ở lại đây làm “Địa Phương Quân” giữ đất. Anh Sơn ngồi cạnh tôi làm hướng dẫn viên, xe ra đến cầu Pḥ Trạch, Phong Điền, cột mốc số 17 trên QL1 anh Sơn ra dấu cho xe dừng lại bên đường, cách cầu Pḥ Trạch khoảng 300 m, anh chỉ gò đất cao, bảo:
- Đây là nơi Trung Tá Lê Hằng Minh- TĐT/TĐ2 và 40 Trâu Điên đã nằm xuống trong trận bị phục kích xe vào ngày 29/6/1966.

Hồi đó anh Sơn là Tr/Sĩ mới ra trường, được bổ sung về BCH/TĐ2, v́ thế sau khi đánh bật đối phương ra khỏi tuyến phục kích, anh chạy đến chỗ của TĐT Lê Hằng Minh, thấy các y tá đang băng bó vết thương... nhưng đă quá trễ rồi, anh Minh đă ra đi! Anh Minh đă nằm tại nơi này cùng hơn 40 thuộc cấp, nay anh Sơn dẫn chúng tôi đến viếng anh linh các Trâu Điên.

Trời Trị Thiên mây mù giăng kín, thật ảm đạm, buồn bã, lất phất những hạt mưa phùn nhè nhẹ như đang nhỏ lệ tiếc thương anh hùng vắn số Lê Hằng Minh cùng thuộc cấp. Chúng tôi vội vàng xuống xe, đi nhanh đến g̣ đất ven đường mà cứ tưởng như ngôi mộ của các anh đă hơn 50 năm không người viếng thăm nhang khói. Chúng tôi cùng thắp nhang để tưởng nhớ người anh cả Trâu Điên cùng đồng đội. Hôm nay, những thằng em, những con Trâu lạc bầy, mới vừa hội ngộ, cùng đến đây thăm các anh, thắp cho các anh một nén nhang để cầu mong anh linh các anh sớm về cơi Vĩnh Hằng.

Nhìn làn khói nhang cuốn vào nhau vươn lên cao trong mưa bụi, tưởng như Anh đang mỉm cười hiền ḥa với chúng tôi. Chúng tôi dành một phút mặc niệm, xin từ giă các anh để tiếp tục về Quảng Trị, chiến trường xưa nơi đó còn nhiều nấm mộ...

Khi đến trường học Bồ Đề, di tích chiến tranh của “Mùa Hè Đỏ Lửa”, Tr/Sĩ Thảo đứng chờ, anh đang mơ màng, dường như anh đang nhớ về ngày xưa, ngày của 45 năm về trước, anh và đồng đội tiến chiếm từng tấc đất, từng ngôi nhà, từng góc phố.

Đến thị xă Quảng Trị đúng 15 giờ chiều, chúng tôi đến Cổ Thành ngay, nơi mà Sư Đoàn TQLC làm nên một chiến thắng vang dội, dựng được Quốc Kỳ trên Cổ Thành thì TQLC đă phải chịu thương vong khoảng 150 người mỗi ngày (theo sách “Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972” Trung Tướng Ngô Quang Trưởng TLQĐI).

Chúng tôi đến cửa trước Cổ Thành (trên đường Lư Thái Tổ) để thắp nhang cho anh linh của những TQLC, Nhảy Dù, Liên Đoàn 81 BCND, Nha Kỹ Thuật, Biệt Động Quân, Thiết Giáp cùng những đơn vị đă tham dự chiến dịch tái chiếm Thị Xă và Cổ Thành Quảng Trị.

Chúng tôi cũng không quên thắp nhang cho những người “anh em” phía bên kia đã “sinh Bắc tử Nam”.

Trong khói hương nghi ngút chúng tôi có linh cảm như các anh vui, v́ lâu lắm rồi mới có Hà Tiên cùng đồng đội đến thăm trong nghĩa t́nh anh em.

 

(Hình chụp trước Cổ Thành, thương phế binh Đinh Văn Toàn cụt 2 chân ngồi xe lăn tay ôm di ảnh Hà Tiên)

Chúng tôi từ giă Cổ Thành, từ giă các anh để tới bờ sông Thạch Hăn, nơi có ṭa hành chánh và dinh tỉnh trưởng. Năm xưa, đây chính là mục tiêu cuối cùng mà ĐĐ4/TĐ2 bằng mọi giá phải dứt điểm trong ngày 15 tháng 9 năm 1972. Chúng tôi ra bờ sông Thạch Hăn để chụp h́nh lưu niệm, và thả hoa, nhìn những cành hoa trôi theo dòng nước về bên kia bờ sông Thạch Hãn, có đài tử sĩ của miền Bắc. Chính nơi đó là tuyến xuất phát của những người “anh em” phía bên kia để tiếp viện cho mặt trận Quảng Trị. Nơi đó đă tiễn đưa hàng ngàn thanh niên miền Bắc qua “Sông Dịch” và hầu hết họ chẳng bao giờ trở lại!

Chiến tranh thật khốc liệt, trong phạm vi thị xă nhỏ bé này đă có ngàn-ngàn thanh niên hai miền Nam-Bắc ngă xuống, đă nằm lại vĩnh viễn nơi đây. Chúng tôi những người lính Miền Nam xin nguyện cầu cho linh hồn các anh được sớm siêu thoát. Chúng ta tuy không cùng chiến tuyến, nhưng chúng ta đă cùng chung ḍng giống Lạc Hồng.

Rời sông Thạch Hăn, chúng tôi đến Thánh Địa La Vang, nơi đây đă từng diễn ra trận đánh đẫm máu giữa TĐ11 Nhảy Dù và một trung đoàn quân Bắc Việt. Thánh Địa La Vang nay chỉ c̣n trơ lại tháp chuông hoang tàn, đổ nát, rêu phong, chúng tôi vào để nguyện cầu cho anh linh các chiến hữu Nhảy Dù, các người lính Bắc quân.

Chúng tôi đến làng Thanh Lê, quan sát xung quanh để cố nhớ lại vị trí xảy ra chiến trận năm xưa. Ngày ấy, Th/Úy Nguyễn Hữu Hào đă phát giác một cḥm cây trong làng bị héo, với con mắt đầy kinh nghiệm chiến trường, Hà Tiên biết đó là vị trí chiến xa địch được ngụy trang.

Từ b́a làng 2 chiếc thiết giáp BTR 50 của VC xông ra, thượng liên trên xe bắn xối xả vào đội h́nh Trung Đội 43 của Th/Úy Hào, Hạ Sĩ 1 Trăi trúng đạn và hy sinh. Th/Úy Hào phát lệnh khai hỏa bằng khẩu M72 bắn cháy ngay chiến xa đầu tiên và cứ như thế hàng loạt M72 thanh toán những chiến xa còn lại, Kết quả ta bắn cháy, tịch thu nhiều chiến xa, Hà Tiên là “Ông Già M72” từ ngày đó. Hôm nay đây, Hà Tiên trở lại chiến trường xưa, gặp lại HS1 Trãi và các đồng đội đã nằm xuống tại bìa làng Thanh Lê.

Chúng tôi đến bờ sông Vĩnh Định, nơi mà tiểu đội của Tr/Sĩ Thảo đă có 4 anh em đã nằm xuống bên bờ sông ngay giây phút đầu tiên dụng trận. Tr/Sĩ Thảo vừa thắp nhang khấn nguyên vừa nh́n xuống dọc bờ sông, h́nh như anh đang xác định vị trí mà ngày xưa các thuộc cấp của anh đă năm lại, hầu t́m lại trong trí nhớ những gương mặt thân quen, trong đó có Vân, Hài (Tây lai), Khánh, Sen.

Rời bờ sông Vĩnh Định, đi theo trục tiến quân ngày xưa, chúng tôi tiến dần đến làng Nại Cửu (2), nơi đây hơn 40 năm trước Bắc quân thuộc Sư Đoàn 325 tấn công đêm vào vị trí đóng quân của ĐĐ4 và họ đă bị thiệt hại nặng. Anh em ĐĐ4 chúng tôi đă chôn cất hơn 30 xác bị các “đồng chí” bỏ lại trên chiến địa.

Giă từ làng Nại Cửu (2), chúng tôi đến chợ Săi, nơi xảy ra những trận đánh ác liệt, hai bên đă giành giật nhau từng căn nhà, từng con đường, máu của những chiến binh hai bên đă thấm đậm nơi vùng đất này sau 15 ngày quyết chiến, cuối cùng ĐĐ4/TĐ2 cũng đă kiểm soát được mặt trận, nhưng cái giá phải trả hơi đắt, hằng chục anh em đă nằm xuống trong đó có hai trung đội trưởng là Th/Úy Hội và Ch/Úy Dương.


(thắp nhang cho đồng đội).

Chúng tôi lại thắp nhang nguyện cầu cho đồng đội, những người đă hy sinh để đơn vị giành chiến thắng và thắp nhang cho cả những chiến binh miền Bắc. Chiến tranh đă tàn lụi lâu lắm rồi, hận thù đối với các bạn không c̣n nữa nơi cơi hư vô, chúng tội nguyện cầu cho anh linh của tất cả anh em đă nằm lại nơi này sớm siêu thoát, được an nhàn nơi cơi Vĩnh Hằng.

Rời Quảng Trị để về lại Huế, chúng tôi dừng chân tại đài tưởng niệm “Đại Lộ Kinh Hoàng” để thắp nhang cho những oan hồn của Dân, Quân, Cán Chính đă nằm xuống nơi này năm 1972 dưới làn đạn pháo của “Trung Đoàn Bông Lau”.

Qua khỏi cầu Mỹ Chánh chúng tôi dừng lại để nhớ về “ngày ấy năm xưa”:

Ngày ấy, bên đường rày xe lửa, trung đội của Thiếu Úy Lộc pḥng thủ, trong lúc anh em đang cầm những bịch gào xấy, ngồi ăn bữa cơm chiều, thì bất ngờ bị một trận bom kinh hoàng, “quân ta đánh quân mình”, 2 chiếc F4 của Mỹ đánh nhầm mục tiêu, một quả bom trúng ngay gữa mâm cơm, 8 anh em “biến mất”, chỉ còn lại một hố bom sâu và mùi cháy khét của da thịt, thật là thê thảm!

Các cụ ta thường nói:

- Trời đánh còn tránh miếng ăn.

Nhưng những người lính chiến chúng tôi rất thường gặp khi hạt cơm chưa qua khỏi cổ đã bị đạn nổ, cơm trộn máu văng tung tóe.

Chúng tôi lặng lẽ thắp cho các bạn ḿnh:

- Các anh đă không c̣n nguyên vẹn h́nh hài để trở về với gia đ́nh, vợ con đang từng ngày mong đợi khi nghe tin chiến cuộc tàn khốc đă xảy ra nơi vùng địa đầu giới tuyến, thân xác các anh đă tan biến vào cơi hư vô, nhưng hôm nay chúng tôi trở lại chiến trường xưa thăm các anh, các anh vẫn sống mãi với địa danh đã được ghi vào Quân Sử.

Các địa danh cần đến, chúng tôi đă may mắn đều t́m đến được, đến để thắp nhang cho đồng đội, cho những người bên kia chiến tuyến, đă có một thời là kẻ thù của nhau. Chúng tôi tạm biệt các anh.

Chúng tôi cũng vô cùng biết ơn thẩm quyền Hà Tiên cùng chị quả phụ Nguyễn Hữu Hào, NT Long Hồ Lê Quang Liễn và cháu gái Katherine Quỳnh Lê, tất cả NT, anh chị em trong gia đ́nh Trâu Điên hải ngoại đă tạo điều kiện vật chất cũng như khích lệ tinh thần để chúng tôi thực hiện được ước mơ “Thăm Lại Mái Nhà Xưa” vào những năm tháng cuối cuộc đời./.










 

 


Văn


Cách sử dụng "I" và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi & ngă" trong tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong tiếng Việt
Xưng hô tiếng Việt...


Cuộc tṛ chuyện bất ngờ
Thư Hậu phương
Nhắc chuyện xưa
Một chuyến đi Oklahoma 
Thăm lại “Mái Nhà” xưa
Hăy kể cho tôi nghe
Young Marines trong ngày Tưởng Niệm 30/04/17
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Sớ Táo Quân TQLC - Đinh Dậu 2017
Đọc "Chặng Đường Nối Tiếp"
NT Nguyễn Thành Yên
NT Hoàng Lăm
Cái chào của Niên Trưởng
Chuyến tản thương cuối cùng
Tháng Ba chôn súng
Các NT TQLC
TQLC mà bà không biết sao?
Người Y-Tá chiến trường
Thôi ! Ḿnh về Linh Xuân Thôn, đi em !
Một thời để nhớ
T́m cha
Biệt đội Sóng Thần
Lăo lượm “Ve Chai”
Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...
Trâu Điên and Cố vấn Reunion 46 years later (1969-2015)
Trung đội 2 Tiểu Đoàn 7 TQLC và những ngày cuối cùng
Quận Trưởng Quận Triệu Phong, Quảng Trị - Chuẩn Úy Lê Đ́nh Lời
Người lính tiên phuông
Anh hùng bất tử
40 Năm tỵ nạn... Nh́n lại đoạn đường
Người Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Mùa Football năm nay sẽ không c̣n...
Đoàn 76 tù binh
Những con Quạ Đen trên nóc nhà xác
Mảnh đời tị nan tại Đức
Người lính già không bao giờ chết
Cơn mưa hạ Atlanta 2014
Cánh Đại Bàng c̣n lại giữa vùng trời TQLC
Vui buồn đời lính -T́nh đồng đội
Nghĩa cử cao quư
Rũ áo thênh thang
30-4 những giờ phút sau cùng của một người Trung đội trưởng TQLC
Người Việt Viết Tiếng Việt. "Người Giệc Giết" Tiếng Việt
Chỉ c̣n là kỷ niệm
Chuyện về cột cờ đầu tiên tại Little Saigon
Nhớ Chú Cảo
Chúc mừng Trường Can
Chuyện ngày xưa…thật xưa
Viết cho con gái Cao Xuân Huy
Những ngày vui ở Nam Cali
Ḍng sông êm đềm
Điệp khúc buồn
Cháu Ông Nội, Tội Bà Ngoại!
Nợ Mẹ hai tiếng yêu thương
Nỗi buồn tháng Tư
Cuộc hội ngộ của Sĩ Quan TQLC/VNCH  và em bé gái mà Ông đă cứu 41 năm trước...
Những cái chết thầm lặng
Dục Mỹ, ḷ luyện thép
Người hát rong nhạc vàng
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
Nụ cười xinh
Những ngày xưa thân ái
Quê hương bỏ lại
Biển vẫn đợi chờ
Buồn vui Đại Hội 2012 tại Oregon
Kỷ Niệm Ngày QL.VNCH. 19/6 - Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 37 năm nh́n lại...
Nỗi ḷng người lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Khóc bạn
Người Lính TQLC bên bờ Bến Hải
Ông Cháu tựa má đầu
Mùa xuân trên đỉnh Torkham
Chiến thắng đầu Xuân
Một thời để yêu, một thời để nhớ
Tuổi 70… Chán mớ đời!
Chút ân t́nh rất đỗi mong manh
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Cao Xuân Huy - Chuyện chưa ai kể
Nhớ về Cao Xuân Huy “Tháng Ba găy súng”
Chút ánh nắng mặt trời trong mùa thu Oregon
Ḍng sông tuổi nhỏ
Vui buồn đời lính 1 - 2 - 3 - 4 - 5
Ḍng thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
Huyền thoại chiến sĩ Mũ Xanh
Cuộc chiến không dừng ở đây
Nỗi ḷng biết ngỏ cùng ai?
Chiêu hồn Quái Điễu
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Thuận An, hành quân triệt thoái
Thư t́nh viết muộn
Người lính miền Nam
Thăm lại Quảng Trị – Khe Sanh & chiến sĩ vô danh
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Tôi đi lính...
Giờ phúc sau cùng của người Trung Đội Trưởng
Đôi bờ chiến tuyến
Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Thoáng nhớ ngậm ngùi
Mối t́nh Sơn Khê
Hai anh em tên Cờ, họ Việt Nam Cộng Ḥa
Hạt bụi vĩ đại
Thư Khu Bưu Chính (KBC)
Hai h́nh ảnh, một cuộc đời
Vé Đây! Vé Đây!
Tháng Ba buồn thiu, tháng Tư găy súng
Bà Mẹ Quê
Ôm M60, M79 đánh ghen
Nghe Nhạc Trang Thủy