Tuổi trẻ Việt Nam
Xuân nhớ đến Mẹ
Người Lính Già (Đại
Bàng Tango)
Mùa Giáng Sinh xưa
Nhớ về chốn cũ
Nhớ nhà (Nhớ ngày ấy)
Saigon của tôi
Tình sen
Mãnh Hổ “Tây Đô”
Ký Ức khó quên
(Ngày tàn cuộc chiến)
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Khi tôi chết
(Tâm sự người lính già)
Tìm phương giác
Gục đầu xuống
Đêm trăng nhớ
bạn
Người lính và
nỗi nhớ
Hương xưa của
tôi
Người lính VNCH
Huyền thoại mưa Sài Gòn
Vịt Tiềm
Thắp nhang cho
bạn
Tấm thẻ bài
Thăng trầm
Hoa nước mắt
Khi tôi đi
Độc ẩm
Nhìn đất mẹ
Nợ núi sông đã trả, chỉ còn nợ em
Tận cùng nỗi nhớ
Một câu hỏi
Một thoáng suy
tư
Mày hỏi tao
Bạc màu áo trận
Thơ - Đông Hương
1 - 2 -
3
Đồng đội
Quận Tư, xóm nhỏ
Người lính già (Cọp
nhớ rừng)
Cảm xúc Tháng
Tư Đen
Nhớ Bạn tuổi thơ
Tháng Tư
hoài vọng
Nhớ Phá Tam
Giang
Khi cha già
cha sẽ về đâu??
Biển ấy, mùa này
Tháng Ba rồi ....
Một ngày và
một đời TQLC
Buồn như một sớm trời không nắng
Huế xa
rồi - Mai mốt về em nhé
Mê thư lính
Tình khúc
cho một người
Nỗi nhớ buồn hiu
Dìu nhau đi cho hết....
Chùm thơ Đông
Hương
Ta về
Ưu tư vận nước
Tưởng niệm 40 năm
Đêm ngủ tôi mơ
Tháng Tư
lại đến nữa rồi
Cái chết của một
tượng đá
Xuân Buồn
Anh sẽ đưa em về
Bức dư đồ
Tâm sự lính Mũ
Xanh
Ngồi xuống đây
Hãy nhặt gìum
cha
Xin giữ
Mây tháng Tư
Xuân xứ người
Lời cho này anh
Giấc mơ tương
lai
Cô giáo Tịnh Như
Nhớ Cao Xuân Huy
Bông hồng Hậu
Nghĩa
Anh đi...
Chiều trên quê nội
Nội tướng của tình
thương
30 tháng 4 - Sống và Chết
Với MX Sóng Thần một
thuở...
Tháng Tư đen
Tao nợ mầy...
Pho tượng người
lính...
Đôi nạng gỗ...
Tôi nợ anh...
Chùm thơ Áo Trắng
Nhớ một chiều Xuân
Thơ của Trần Khoa Danh
Tâm sự người Thương Binh
Nhà xưa đã khép
Có nhiều cách gọi về song thân tùy theo địa
phương, nhưng ở quê tôi, một vùng thuộc tỉnh Kiến An, Hải Phòng thì
con gọi bố mẹ là thầy bu, vì thế tôi xin giữ hai danh từ này cho bài
viết về mẹ tôi, một bà mẹ quê.
*
Thầy tôi qua đời ngày 15 tháng Giêng năm 1947, hưởng dương 41 tuổi!
Ông cụ mất đi khoảng sau 2 tháng bị bệnh mà thuở ấy người vùng quê
chỉ biết gọi là bệnh “thương hàn”(?). Những ngày thầy tôi lâm trọng
bệnh và khi các con tiễn chân ông cụ ra cánh đồng thì nay tôi không
còn nhớ gì nữa! Kỷ niệm duy nhất còn sót lại trong đầu tôi là khi
ông cụ tháo vai cày ra khỏi cổ con trâu rồi đưa sợi dây thừng cho
tôi dẫn nó đi ăn, đang gặm cỏ, khi đến bên bờ hồ trước cửa nhà thờ
thì nó nhào xuống nước, ngước mũi lên thở phì phò, còn tôi, một
thằng bé chăn trâu mới 6 tuổi, không thể kéo nó lên được nên tôi
đành buông dây thừng, đứng trên bờ mà khóc vì sợ con trâu sẽ chết
đuối.
Nhưng với bu tôi, một bà mẹ quê, thì tôi nhớ nhiều, nhưng chưa một
lần nhắc lại những kỷ niệm này với anh chị em và con cháu. Khi thầy
tôi mất thì bu tôi mới 43 tuổi với một nách bẩy đứa con, tất cả cùng
sống trong căn nhà tranh vách đất ba gian hai trái, một mảnh vườn
với dăm ba sào ruộng thuộc làng Cựu Viên, tỉnh Kiến An,thành phố Hải
Phòng, và chỉ cách hai nơi này chừng hơn 3 cây số.
Một hình ảnh tuy đã hơn 60 năm rồi mà tôi vẫn còn như đang thấy
trước mắt, đó là cảnh vào lúc hoàng hôn, bu tôi đứng ở góc vườn,
hướng ra nghĩa trang mà kêu tên thầy tôi trong tiếng nấc sau khi đã
chôn cất thầy tôi xong.
Bu tôi cả ngày phải chân lấm tay bùn với ruộng lúa vườn rau, mỗi
buổi chiều về, sau khi thổi cơm cho con, nấu cám cho lợn (heo) xong
thì mặt trời đã lặn, giữa lúc tranh tối tranh sáng, bà lẳng lặng ra
góc vườn, lúc thì ngồi ngắt đọt khoai lang, khi thì đứng hái lá chè
mà thút thít khóc trong khi các con không hay biết.
Một buổi chiều tối, khi chim đã về tổ, tôi leo lên cây cau ở góc
vườn để bắt ổ chim sáo đen khi nghe chim con “chíp chíp” mà tôi đã
rình từ lâu, tôi thất kinh suýt rơi xuống đất khi bất chợt thấy bóng
đen đứng khóc góc vườn. Nhưng tôi hoàn hồn ngay khi nhận ra giải
khăn tang trắng vấn trên đầu, hai đuôi khăn chạy dọc sống lưng của
bu tôi, tôi vội tụt xuống định chạy vào nhà, nhưng rồi khựng lại,
ngồi thụp xuống bên gốc cây cau vì nghe tiếng bu tôi khóc:
“Ối ông ơi! Trời đã tối rồi! Ông đi đâu mà sao không về ăn cơm uống
nước với các con ông ơi!” .
Tuy tuổi lên 6, tuổi nghịch ngợm của trẻ nhà quê không biết sợ ma
nhưng tôi rùng mình nổi gai ốc khi nghe bu tôi kêu lên như thế. Bà
khóc trong nấc nghẹn, cố kềm trong họng không cho ra tiếng vì sợ các
con nghe được, chắc bà cam chịu đau khổ thương nhớ một mình, không
đành chia nỗi buồn với các con. Các anh chị em chúng tôi không ai
hay biết việc này, vì sau một ngày quần quật với công việc ruộng lúa
vồng khoai thì tất cả đã mệt nhoài, mọi người đi nghỉ sớm để sáng
mai, khi gà vừa gáy và tiếng chuông nhà thờ “bính-boong” lúc 5 giờ
sáng là đã phải dậy để chuẩn bị ra đồng.
Riêng mình tôi biết bu tôi khóc, tôi chẳng nói cho ai hay, nhưng
tiếng khóc của mẹ xoáy vào đầu tuổi thơ khiến tôi cứ đứng sau hè
nhìn bu tôi rũ xuống như tàu lá chuối héo, nghe bà nấc nghẹn mà ứa
nước mắt theo. Nhiều khi tôi thấy bà vịn cành chè rồi sức nặng của
khổ đau kéo cành chè gẫy xuống! Một chiều tối, tôi nghe tiếng nói
bên kia vườn, cách bụi tre, vẳng sang:
_ Mẹ Quán sao cứ khóc mãi thế! Hãy để cho Quán nó yên nghỉ.
Đó là tiếng của cụ Dưỡng, chú của thầy tôi, chắc cụ cũng sót ruột vì
tiếng khóc mỗi chiều tối ngoài góc vườn. Bu tôi là cháu dâu nên phải
vâng lời chú, từ đó bu tôi không đứng khóc ngoài góc vườn nữa. Nhưng
nỗi sầu vì nấm mồ chôn chồng chưa xanh cỏ thì làm sao vơi nên nước
mắt tiếp tục rơi cùng những tiếng nấc nghẹn trong góc bếp giữa đêm
khuya.
Mùa Đông tháng giá, tiết trời khá lạnh ở vùng quê với căn nhà lá có
nhiều khe hở để gió lùa vào, anh em tôi nằm ổ rơm, đắp chiếu, kín
đầu thì hở đuôi và ngược lại kín chân thì thò đầu, cái lạnh đêm
khuya lại thêm dạ dày trống đúng với câu châm ngôn “bụng đói cật
rét” nên giấc ngủ chập chờn. Nửa đêm về sáng, khi gà vửa gáy, tôi
thức giấc thấy ánh lửa từ nhà bếp hắt lên, tôi bò dậy và mon men tới
để sưởi cho ấm thì thấy bu tôi ngồi nấu cám heo, một tay cầm que,
tay kia nắm mớ rơm đẩy vào tiếp cho lửa cháy, bóng mẹ tôi in lên
vách bếp, ngả nghiêng theo ánh lửa bập bùng. Đêm khuya, thấy con
thức dậy bò xuống bếp thì bà mẹ biết con đang thiếu cái gì. Vừa
trông thấy tôi, bà vội kéo vạt áo lau nước mắt, rồi nói:
_ Đói hả? Ngồi xuống đây sưởi cho ấm rồi bu nướng cho con củ khoai.
Bếp nhà quê đun bằng rơm rạ nên có tiếng nổ lép-bép làm bắn ra những
tia lửa tựa pháo bông và kéo theo tro bụi phủ lên người ngồi nấu. Bu
tôi đứng dậy khẽ phủi tro trên tấm khăn tang trắng rồi lấy củ khoai
lang ở cái thúng treo sau lưng vùi vào đám tro giữa ba “ông đầu
rau”.
Có thể nhiều người không biết “khoai nướng vùi bếp tro” là gì, mùi
vị nó ra sao, ngay cả con cháu nội ngoại của bu tôi hiện nay đang
sinh sống trên đất Mỹ cũng không biết. Nhưng với tôi, củ khoai lang
vùi bếp tro mà bu tôi “ban” cho tôi không có gì so sánh được. Người
ta thường dùng chữ “ban” đề nói về những “hồng ân” mà Thượng Đế,
Chúa, Phật ban cho con chiên, phật tử, nhưng bu tôi đã “ban” cho tôi
củ khoai nướng vùi bếp tro giữa đêm Đông giá lạnh mà xung quanh bếp
chỉ có rơm rạ, tro bụi, bóng tối và tình mẹ con.
Bà mẹ khều củ khoai trong đám tro ra, vò nắm rơm chà lên vỏ ngoài
cho sạch chỗ cháy đen rồi đưa cho con:
_ Khoai còn nóng lắm, con ăn từ từ.
Đúng rồi, khoai nướng thơm và ngon với trẻ em miền quê, nếu em đói
mà vội ăn đến nỗi quên cả bóc vỏ thì sẽ bị nóng phải hả miệng ra,
ngửa mặt lên mà thổi “phù-phù”, ăn vụng mà nuốt vội miếng khoai lang
dễ bị nghẹn. Bụng đói, cật rét mà hai tay nắm củ khoai nướng nóng
thì thích lắm, nhưng không hiểu sao cái tật tham ăn của tôi biến đi
đâu mất, tôi cũng chẳng hiểu chữ “hiếu” là gì, nhưng vẫn cứ bẻ cũ
khoai ra làm hai, đưa bu tôi một nửa mà không nói một lời nào cả?
Biết nói gì hơn, và dù biết văn hoa chữ tốt thì trong hoàn cảnh ấy,
ngàn vạn lời nói cũng bằng thừa, là sáo ngữ. Tôi đưa nủa củ khoai
cho bu tôi chỉ vì tôi thấy bu tôi kéo vạt áo lau nước mắt, chỉ vì
trong ánh lửa rơm chập chờn giữa đêm khuya mả tôi thấy mắt bu tôi
đỏ. Tôi đưa nửa củ khoai cho bu vì tôi biết bu tôi cũng đói nhưng
nhường miếng ăn cho con như tất cả các bà mẹ khác.
Cầm miếng khoai trong tay, bu tôi nhìn tôi không nói gì cả nhưng lại
choàng tay qua kéo tôi vào lòng. Tôi biết bu tôi đang thổn thức và
rồi bà khẽ nói:
_ Con lên nhà đánh thức các anh chị dậy ăn cơm để còn kịp “ra đồng”.
Hai chữ “ra đồng” là chỉ công việc ngoài đồng ruộng như cuốc đất,
nhổ mạ, cấy lúa, làm cỏ, trồng rau, trồng khoai, trồng bắp (ngô)
v.v..những công việc của nhà nông để làm ra thực phẩm mà người
“thành phố”, nhất là các bạn trẻ người Mỹ gốc Việt không bao giờ có
thể hình dung ra được nó vất vả như thế nào.
Ngày qua ngày, bầy gà một mẹ bẩy con đùm bọc quây quần dưới mái
tranh được bao quanh bởi lũy tre, rồi bị chạy loạn vì chiến tranh!
Khi hồi cư về làng cũ thì chỉ còn hoang tàn đổ nát nên mẹ con lại
chạy theo dòng người di tản. Thấy họ đi thì bà mẹ quê cũng dắt con
đi, không biết đi về đâu và làm gì! Những lúc gian nan khốn khổ như
thế chắc hẳn bu tôi lại kêu tên thầy tôi và mong chồng chỉ lối đưa
đường cho vợ góa con côi được về nơi bình an.
Cuối cùng thì gia đình tôi làm dân di cư trôi dạt vào Nam, về làng
Bến Xúc, quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương năm 1954. Người nông dân
thường có sức chịu đựng như “cỏ dại”, vất đâu cũng sống được với
đất, nhưng mẹ con chúng tôi ra đi không mang theo ruộng vườn, chỉ có
hai bàn tay nên phải xoay sở, các anh chị tôi lúc này đã trưởng
thành nên phiêu lưu về thành phố và gia đình tôi lại di chuyển về
172/41 đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội, quận Bốn, Saigon.
Bu tôi, một bà mẹ quê “lạc” về thành phố, bỏ lại sau lưng xa tít mù
khơi mái tranh, lũy tre, ruộng vườn và nhất là mồ chồng mà sẽ không
bao giờ được nhìn lại nên bu tôi như tàu lá úa và chỉ hồi sinh sau
khi đã có tiếng bập bẹ “bà bà” của các cháu nội ngoại. Có lẽ đây là
giây phút hạnh phúc nhất của bu tôi cũng như các bà mẹ khác, thương
cháu chăm sóc cháu hơn thương con.
Vẫn tưởng bu tôi được vui hưởng thái bình với cháo rau đạm bạc bên
con cháu cho tới lúc đầu bạc răng long thì chiến tranh lại tràn về,
các con trai con rể của cụ lên đường tòng quân, thằng Cao Nguyên,
đứa Đông Hà, con trai út ở núi Sơn Chà thì con trai áp út ở mãi tận
mũi Cà Mâu, đâu đâu cũng nghe tiếng súng nổ! “Đại bác đêm đêm vọng
về thành phố” thì bà mẹ quê khốn khổ thức giấc ngồi tựa lưng vào
vách, mắt nhắm, tay cầm tràng hạt, miệng đọc thầm chuỗi Mân-Côi cầu
xin Thượng Đế ban ơn lành cho đàn con nơi lửa đạn.
Nhưng hằng ngày bu tôi vẫn nhói tim khi nhìn những xe nhà binh GMC
trên chở quan tài phủ cờ chạy qua cửa! Khi nghe mấy bà hàng xóm kháo
nhau rằng áo quan phủ cờ vàng sọc đỏ là của lính chết trận đó thì bu
tôi vịn tường ngồi xuống đất đọc kinh tiếp.
Rồi sáng ngày N tháng 6/1966, một xe GMC chạy vào xóm và từ từ dừng
lại khiến bu tôi hốt hoảng khuỵu xuống, nhưng người lính TQLC tìm
nhà bà Châu, bà hàng xóm và cũng là người cùng quê, để báo tin con
trai bà là thằng Mão đã tử trận! Bà Châu xỉu, bu tôi hoảng hốt lo
lắng muốn xỉu theo, vì Mão và tôi là bạn và cùng tình nguyện
vàoTQLC. Mão Tiểu Đoàn 1, tôi Tiểu Đoàn 2, cả hai vừa đụng trận tại
ngã ba sông Định, thuộc Bích La Thôn Quảng Trị, nó tử thương, tôi bị
đạn xuyên khuỷu tay, thấy không sao nên tôi đã nói với hậu trạm là
đừng báo tin về cho gia đình biết. Khốn thay, hậu cứ ở Thủ Đức cứ
theo đúng thủ tục mà báo tin nên hai ngày sau lại một xe nhà binh
đậu trước cửa hỏi nhà bà Tiệp, tên anh cả của chúng tôi, người báo
tin chưa kịp nói gì thì bu tôi không còn biết gì nữa!
Vì bị thương nhẹ nên tôi xin xuất viện ngay để đi phép. Bu tôi đang
nằm trên giường bệnh, thấy tôi về, cụ ngồi bật dậy ngơ ngác nhìn
con, hai tay vuốt mặt con, nắn vai, nắm tay con lắc lắc như muốn
biết đây là thực hay chiêm bao? Bu tôi không nói gỉ mà chỉ khóc, có
lẽ cụ khóc vì lo âu, cụ khóc vì hạnh phúc còn cầm được tay con vừa
từ mặt trận trở về, những bà mẹ của lính chiến thấy mặt con lúc nào
thì hạnh phúc lúc đó. Tôi xin mượn ý bài thơ MTHS: “không chết người
con lính chiến mà chết người mẹ ở hậu phương”, người lính chiến nếu
có chết, chỉ chết một lần, nhưng bà mẹ hậu phương thì chết dần chết
mòn, chết giấc vì con!
Bu tôi đã chết giấc nhiều lần như thế khi thấy mấy đứa con, đứa cháu
trong họ hàng và cùng ở TQLC lần hồi tử trận như Tô Chiêu, Tô Sơn,
Vũ Tuấn, Nguyễn Thanh v.v..Cuối cùng thì ngày 19/6/1969, trên con
kinh Cán Gáo thuộc tỉnh Chương Thiện, những tiếng nổ đã loại tôi ra
khỏi vòng chiến, nhưng may mắn hơn Chiêu, Sơn, Tuấn, Thanh v.v..,
tôi còn nặng nợ, chưa đi được nên khi tỉnh dậy, thấy mình nằm trên
giường bệnh bệnh viện, toàn thân những dây cùng nhợ! Mờ mờ nhìn qua
lớp băng quấn đầu, tôi nhận ra bu tôi đang lấy cạy vết máu, vết sình
đã khô trên mặt tôi, tôi mấp máy đôi môi, gọi qua hơi thở của bình
dưỡng khí:
_ “Mẹ”.
Tiếng “Mẹ” dễ gọi dễ thương là thế nên tôi quen với chữ “Mẹ” từ đó.
Tôị bị trọng thương, bị loại khỏi vòng chiến thì cũng là lúc mẹ tôi
bớt được một phần lo âu, thấy tôi lê lết với đôi nạng gỗ kẹp nách
thì mẹ lại mỉm cười:
_ “Con cứ như thế này thì mẹ đỡ lo”.
Chưa trả hết nợ nước nên tôi được hạnh phúc quanh quẩn một thời gian
bên bà mẹ già nhà quê, bà mẹ không biết viết, không biết đọc mà chỉ
biết khóc vì con. Thế rồi đất bằng dậy sóng, các bà mẹ lại tiếp tực
vất vả vì các con, lần sau cùng tôi nghe mẹ khóc là khi tôi cáu kỉnh
nhìn mẹ rồi vất đôi dép làm bằng vỏ xe hơi mà cụ đã len lén để vào
túi xách cho tôi lên đường “vinh quang”.
Sau ngày 30/4/75, ba anh em trai tôi cùng hai người anh rể đều lên
đường để “được” cải tạo làm con người! Chẳng cần nói thêm thì ai
cũng biết một bà mẹ già trong hoàn cảnh ấy thì “có vui bao giờ”!
Nghe hàng xóm xì xào bán tán, mẹ tôi thật thà đi mua quần áo đen và
dép râu cho các con để sớm được về đoàn tụ!
Quá khứ đời tôi lính chiến đã khiến mẹ lo âu sợ hãi nhưng chưa lần
nào tôi hỗn với mẹ như lần này, tôi lôi đôi dép cao su ra khỏi túi
xách và quăng nó vào góc nhà, mẹ tôi nhìn sững tôi và chắc bà tự hỏi
tại sao con lại vất những thứ cần thiết ấy, nó sẽ giúp con để sớm
được về với mẹ. Làm sao tôi hiểu được tình thương mênh mông của bà
mẹ quê trong khi bà cũng không biết được con trai mẹ đang chín từng
khúc ruột. Tôi lẳng lặng cầm túi xách với bộ quần áo lên đường,
không lời chào từ giã mẹ già đang ngồi tựa lưng vào vách mà mắt nhìn
theo gót chân con!
“Cải tạo” tới năm thứ chín thì tôi hay nằm mơ thấy mẹ, linh tính cho
biết có điều chẳng lành, tôi hỏi người nhà mỗi khi đến thăm nuôi thì
được biết mẹ tôi vẫn bình thường. Nhưng sao vẫn thấy mẹ trong giấc
mơ, tôi đem chuyện hỏi lại thì lúc đó vợ tôi đành lôi trong túi xách
ra một xấp hình đám tang mẹ tôi mà vợ tôi đem theo nhưng dấu kín.
Tôi không còn nước mắt để khóc mẹ vì tôi đã không chào mẹ khi ra đi,
không biết rằng đó là lúc chào lời vĩnh biệt, không biết ai vĩnh
biệt ai. Mẹ tôi khóc vì các con phải đi xa khi đã thái bình khiến mẹ
mù lòa! Mẹ tôi ra đi vĩnh viễn khi tôi chưa quay về!
“Lòng mẹ thương con như biển Thài Bình dạt dào”, lòng mẹ như bị dao
chém mỗi khi nghe tin con “thắng trận” trở về, “trở về trên đôi nạng
gỗ, trở về hòm gỗ cài hoa”! Lời nào nói cho đủ, viết cho hết trong
vài trang giấy! Những bà mẹ dù quê hay thành phố, dù bên này hay bên
kia đều là Mẹ Việt Nam. Mẹ VN thì lúc nào cũng vui và khổ đau theo
đời sống thăng trầm của các con, không vui khi các con không vui với
nhau. Khổ đau biết bao những bà mẹ của các anh lính chiến luôn canh
cánh bên lòng, lo sợ phải rên rỉ câu:
_“Lá vàng đeo đẳng trên cây, lá xanh rụng xuống !!!”
Những ai còn mẹ, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa thì xin chớ có cử chỉ
đáng trách như tôi đã phạm đối với “bà Mẹ quê” để khỏi phải ân hận
khôn nguôi./.
Captovan
Cách sử dụng "I"
và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi
& ngã" trong
tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngã
Gạch nối trong
tiếng Việt
Xưng hô tiếng
Việt...
Cuộc trò
chuyện bất ngờ
Thư Hậu phương
Nhắc chuyện xưa
Một chuyến đi Oklahoma
Thăm lại
“Mái Nhà” xưa
Hãy kể cho tôi
nghe
Young Marines trong ngày Tưởng Niệm 30/04/17
Trận QT 72 của Lữ Đoàn 258 TQLC
Sớ Táo Quân
TQLC - Đinh Dậu 2017
Đọc "Chặng Đường Nối Tiếp"
NT Nguyễn
Thành Yên
NT Hoàng Lãm
Cái chào của Niên
Trưởng
Chuyến
tản
thương cuối cùng
Tháng Ba chôn súng
Các NT TQLC
TQLC mà bà
không biết sao?
Người
Y-Tá chiến trường
Thôi ! Mình
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Một thời để nhớ
Tìm cha
Biệt đội Sóng Thần
Lão lượm “Ve Chai”
Trâu Điên Và Cố Vấn
Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...
Trâu
Điên and Cố vấn Reunion 46 years later (1969-2015)
Trung đội 2 Tiểu Đoàn 7 TQLC và những ngày cuối cùng
Quận
Trưởng Quận Triệu Phong, Quảng Trị - Chuẩn Úy Lê Đình Lời
Người lính tiên
phuông
Anh hùng bất tử
40 Năm tỵ nạn... Nhìn lại
đoạn đường
Người
Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972
Mùa
Football năm nay sẽ không còn...
Đoàn 76 tù binh
Những con
Quạ Đen trên nóc nhà xác
Mảnh đời tị nan tại Đức
Người lính già không bao giờ chết
Cơn mưa hạ Atlanta
2014
Cánh Đại Bàng còn lại
giữa vùng trời TQLC
Vui buồn đời
lính -Tình đồng đội
Nghĩa cử cao quý
Rũ áo thênh thang
30-4 những
giờ phút sau cùng của một người Trung đội trưởng TQLC
Người Việt Viết
Tiếng Việt. "Người Giệc Giết" Tiếng Việt
Chỉ còn là kỷ niệm
Chuyện về
cột cờ đầu tiên tại Little Saigon
Nhớ Chú Cảo
Chúc mừng Trường Can
Chuyện ngày xưa…thật xưa
Viết cho con gái Cao
Xuân Huy
Những ngày vui ở
Nam Cali
Dòng sông êm đềm
Điệp khúc buồn
Cháu Ông Nội, Tội
Bà Ngoại!
Nợ Mẹ hai tiếng
yêu thương
Nỗi buồn tháng Tư
Cuộc hội ngộ của Sĩ
Quan TQLC/VNCH và em bé gái mà Ông đã cứu 41 năm trước...
Những cái chết
thầm lặng
Dục Mỹ, lò luyện thép
Người hát rong
nhạc vàng
Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào
Nụ cười xinh
Những ngày xưa thân ái
Quê hương bỏ lại
Biển vẫn đợi chờ
Buồn vui Đại Hội 2012
tại Oregon
Kỷ Niệm Ngày QL.VNCH.
19/6 - Người lính Việt Nam Cộng Hòa sau 37 năm nhìn lại...
Nỗi lòng người
lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Khóc bạn
Người Lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Ông Cháu tựa má đầu
Mùa xuân trên
đỉnh Torkham
Chiến thắng đầu Xuân
Một thời để yêu, một
thời để nhớ
Tuổi 70… Chán mớ đời!
Chút ân tình rất đỗi
mong manh
Người còn nhớ
hay người đã quên
Cao Xuân Huy -
Chuyện chưa ai kể
Nhớ về Cao Xuân Huy
“Tháng Ba gãy súng”
Chút ánh nắng mặt trời trong mùa thu Oregon
Dòng sông tuổi
nhỏ
Vui buồn đời
lính 1 -
2 - 3
- 4 -
5
Dòng
thời gian và những âm giai của một người lính TQLC
Huyền
thoại chiến sĩ Mũ Xanh
Cuộc chiến
không dừng ở đây
Nỗi lòng
biết ngỏ cùng ai?
Chiêu hồn Quái
Điễu
Thiên
hùng ca dựng một ngọn cờ
Thuận
An, hành quân triệt thoái
Thư tình viết muộn
Người lính miền Nam
Thăm lại Quảng
Trị – Khe Sanh & chiến sĩ vô danh
Hãy thắp cho
anh một ngọn đèn
Tôi đi lính...
Giờ phúc
sau cùng của người Trung Đội Trưởng
Đôi bờ chiến tuyến
Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Thoáng nhớ ngậm ngùi
Mối tình Sơn Khê
Hai anh em tên Cờ,
họ Việt Nam Cộng Hòa
Hạt bụi vĩ đại
Thư Khu Bưu Chính (KBC)
Hai hình ảnh, một
cuộc đời
Vé Đây! Vé Đây!
Tháng
Ba buồn thiu, tháng Tư gãy súng
Bà Mẹ
Quê
Ôm M60, M79 đánh ghen
Nghe Nhạc
Trang Thủy