Thơ

Trang thơ Nguyễn Minh Châu
Thơ - Tuấn TT
Chùm thơ Đông Hương
Thơ - Huy Văn


Thơ Văn 2020
Thơ Văn 2019
Thơ Văn 2018
Thơ 2017 - 2022
Thơ Văn 2023


Sinh nhật
Chuyện về nguồn
Nhớ Cha
Thu chiều… lặng lẽ
Chim kêu… nỗi ḷng
Nh́n Thu … Thương Phận
Huynh đệ chi binh
Quanh thau rượu
Hoàng hôn bên đồi
Nén hương mùa kiếp nạn
Tháng Tư… Trang sử…
Thằng lính già thương cảm
Thằng lính già cô độc
Thằng lính già ngủ mơ
Thằng lính già hoài niệm
Thằng lính già nhớ bạn
Phục Sinh nhiệm màu
Thương tích
Nửa đêm tỉnh giấc
Vá cờ
Xuân...và Quê tôi
Đă 50 năm
Ai nợ ai…?
Nỗi ḷng viễn xứ
Quà tặng
Quê hưong ngàn trùng
Đừng gọi tôi là ân nhân
Mùa Thu đất khách
Quê hương tôi đánh mất
Từ biệt đồng đội
Dậy đi em
Ngày chia tay
Hương xưa của tôi
Nặng trĩu niềm dau
Nổi sầu muôn thuở
Thương em…
Đếm Sao…
Hè về không Phượng đỏ
Về thăm chốn xưa
Ḍng Đời …
Ước mơ Phá Tam Giang
Ánh trăng xưa
Anh hùng tử, khí hùng bất tử
Một bài thơ không tên
45 năm đợi chờ & mơ ước
Sài G̣n yêu
Ngày đại thọ
Ḷng sơn gửi tạm giữa đất trời
Mông lung
Ḥn khô
Đêm ngủ tôi mơ
Cali mùa hạnh ngộ
Nhớ măi
Vẫn t́m em
Tháng tư hành
Gánh phù vân
Quốc hận
Nhắn lời
I am a soldier born to die
Tháng 2! Xuân vẫn ngát hương đời
Nhớ xuân xưa
Xin em
Cũng đành thôi
Đêm xuân nhớ mẹ
Mừng sinh nhật
Phút cuối
Đoản khúc Đà Lạt
Chờ
Hương ḷng
Nỗi ḷng biết ngỏ cùng ai ?
Cho anh nói lời xin lỗi với thằng em
Hồn thức giấc
Khóc cho người nằm xuống
Vọng cố hương… nỗi nhớ
Nỗi niềm riêng
Hương xưa của tôi
Mùa Trạng Nguyên

 

 

 

 

 

 


Những Niên Trưởng Đáng Kính


MX Lê Quang Liễn
 

Niên Trưởng Nguyễn Xuân Phúc



NT Nguyễn Xuăn Phúc & Pgosng viên chiến trường

 

Cuối năm 1971, sau khóa học quân sự tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, tôi được thuyên chuyển về TĐ2/TQLC. Đến phi trường Đông Hà buổi chiều mùa Đông nhiều mây xám vào gần cuối năm, trời mưa và thật lạnh với cái rét thấu xương của miền Trung. Tiểu đoàn đang đóng quân gần Đông Hà nên Niên Trưởng (NT)

Nguyễn Xuân Phúc cho xe đón tôi, gặp tôi ông cười vui vẻ nói:

-Cuối năm 69 ông chê TĐ2 v́ không chịu làm tham mưu, nên lần này tôi xin ông về chỉ để đánh nhau thôi, tôi giao Đại Đội 4 cho ông đó.

-Thưa Trung Tá tôi rất mừng được về đây, dầu sao Trung Tá không giận thằng em. Vả lại, lúc đó tôi thấy bó tay bó chân khi ở BCH/TĐ. Tánh tôi ưa hoạt động độc lập. Xin cám ơn Trung Tá.

Lời chào mừng có ư nhắc lại thời kỳ năm 1969, sau khi tôi vừa măn khóa Basic School tại Quantico, Hoa Kỳ tức Khóa học Căn Bản Sĩ Quan TQLC/HK và thuyên chuyển về “Khối Bổ Sung” để chuẩn bị cho TĐ8/TQLC tân lập. Thời gian sau đó, tôi được chuyển về TĐ2/TQLC trong chức vụ Sĩ Quan HQ&HL, nhận thấy các ĐĐT là các NT/K19 của tôi cả nên tôi thấy không phù hợp trong nhiệm vụ và xin NT cho tôi ra đại đội tác chiến, nhưng NT Phúc nói chờ vài tháng v́ đang kẹt nhiều sĩ quan thâm niên mà Tiểu Đoàn thì chỉ có 4 đại đội nên sau đó tôi được về lại “Khối Bổ Sung” v́ nhu cầu cán bộ cho TĐ8/TQLC .

NT Nguyễn Xuân Phúc rất nổi tiếng v́ là Á Khoa K16 TVBQGVN. Trong thời gian thụ huấn NT là Tiểu Đoàn Trưởng trong hệ thống tự chỉ huy của SVSQ, được đồng khóa và các khóa đàn em kính mến, được đàn em tặng biệt danh “Robert Lửa” . Trong BC/TQLC, NT từng lần lượt giữ các chức vụ từ cấp trung đội trưởng cho đến tiểu đoàn trưởng, và sau cùng là Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369/TQLC.

Điểm nổi bật của NT là trung thực, thẳng thắn, hết sức tôn trọng các đơn vị bạn khi giao tiếp. Sống với đồng đội, thuộc cấp thì NT thật b́nh dị như anh em, đi hành quân cũng nằm đất trên tấm poncho hoặc trên chiếc vơng như mọi người. NT Phúc nghĩ nhiều về sự an nguy, và quyền lợi của thuộc cấp. Đặc biệt NT rất nghiêm nghị, trầm tư lúc hữu sự, đôi mắt to, sáng quắc, long lanh khác hẳn những lúc sinh hoạt b́nh thường. Điều này cũng làm cho các vị cố vấn TQLC/HK đi cùng phải im lặng và chờ lịnh từ NT.

Một kỷ niệm khó quên với người NT đáng kính là trong một lần tôi về phép Sài G̣n vào năm 1974, thời gian này NT đang theo học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu tại Long B́nh. NT hẹn tôi đón ông tại ngă tư Thủ Đức và Xa Lộ Biên Ḥa lúc 6 giờ chiều. Th́ ra NT quá giang xe của bạn bè từ Sài G̣n- Long B́nh mỗi ngày để đi học. NT có thời gian hơn 6 năm giữ những chức vụ chỉ huy, mà lúc đi đáo nhậm đơn vị mới chỉ chạy cái xe Lambretta cũ mèm. NT có cuộc sống rất thanh bạch. Vị Tư Lệnh nói:

-Phúc nó nghèo, vì lúc nào nó cũng sợ lính bị đói.

Là TĐT/TĐ2 nhưng NT đă chứng tỏ khả năng chỉ huy cao hơn trong cuộc HQ Lam Sơn 719 trên chiến trường Hạ Lào năm 1971, trong t́nh thế bị bao vây và chia cắt, suốt hơn một tháng tham dự, vị Lữ Đoàn Trưởng 147 bị suy sụp sức khỏe, trong vai trò Tiểu Đoàn Trưởng bảo vệ Lữ Đoàn, NT đă không ngần ngại hay chờ lệnh mà nắm ngay quyền điều động các đơn vị, xin hỏa lực yểm trợ của Không Quân Hoa Kỳ qua hệ thống Cố Vấn TQLC tại Khe Sanh. Trên hệ thống truyền tin của LĐ/147TQLC, tiếng nói thường trực 24/24 của NT đă đem lại sự an tâm cho tất cả đơn vị thống thuộc .

NT đã điều động các đơn vị đến điểm tập trung an toàn để được trực thăng bốc về Khe Sanh, TĐ2/TQLC là thành phần bao chót của Lữ Đoàn 147.

“Gian Nan Thử Sức”, trước tình thế nguy ngập khó khăn mới biết ai là “Cây Tùng Trước Bão”. NT Nguyễn Xuân Phúc là một người như thế.

Sau hơn 4 tháng hành quân tăng phái cho Quân Đoàn I, TĐ2 trở về hậu cứ vào trung tuần Tháng 3/1972 để bổ sung quân số và tái trang bị. Chưa được tṛn 2 tuần lễ, chưa có ngày phép nghỉ ngơi thì ngày 3 tháng 4 năm 1972, TĐ2/TQLC đã phải trở lại chiến trường Quảng Trị khi CSBV bắt đầu chiến dịch Nguyễn Huệ. Vùng hành quân trách nhiệm của TĐ2/TQLC phía Tây – Nam Thị Xă Quảng Trị. Trong gần suốt Tháng 4 năm 1972, Đại Đội 4 của tôi trấn thủ và chịu đựng pháo địch ngày đêm tại căn cứ Barbara, vị trí xa nhất gần 10km về hướng Tây của Quốc Lộ1, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2 cách căn cứ Barbara khoảng 8km, các đại đội tích cực t́m kiếm và tiêu diệt các toán trinh sát CSBV đang bám sát quân ta hoặc phát giác các ổ pḥng không của địch trên các hốc núi, triền đồi để phi cơ oanh kích chúng. Trong tuần lễ thứ hai của Tháng 4/1972, Trung Đội/Viễn Thám do Th/Úy Nguyễn Văn Đợt chỉ huy sử dụng con đường nối liền từ QL1 – Barbara (có từ thời Quân Đội Hoa Kỳ) để hoán đổi cho Trung Đội/VT bạn tại Barbara, đă bị CSBV phục kích gây thương vong, một số bị bắt .
Áp lực địch ngày càng gia tăng nhất là hướng Bắc, Tây- Bắc của Sư Đoàn 3 và các đơn vị tăng phái. Trước t́nh h́nh rất căn thẳng của khu vực hành quân NT Phúc đă h́nh dung sẽ có lúc phải rút “đứa con” (Đại Đội 4) xa nhất về , NT đă ra lịnh cho Đại Đội 1 là đơn vị gần tôi nhất, phải âm thầm phát rừng mở một con đường mới, xuyên rừng và cách con đường cũ khá xa về phía Nam. Về phần tôi, cũng chỉ phải phát rừng gần 200m để gặp Đại Đội 1. Trong ṿng 5 ngày hai đại đội đă thông được con đường, mà công lao của Đại Đội 1 là chính. Từ đây, mọi tiếp tế lương thực, bổ sung... cho đơn vị tôi đều xử dụng con đường kín đáo này một cách an toàn.

Với tầm nh́n xa và sự nhạy bén t́nh h́nh của cấp chỉ huy kinh nghiệm mà NT đă đưa ra những kế hoạch đúng lúc, đúng chỗ, bảo đảm an toàn cho Đại Đội 1 và Đại Đội 4 về sinh mạng và quân dụng khi có lịnh rút TĐ2/TQLC về thiết lập tuyến pḥng thủ Mỹ Chánh vào đầu tháng 5 năm 1972.

Tại pḥng tuyến Mỹ Chánh vào đầu tháng 5/1972, trước áp lực của nhiều sư đoàn CSBV với kế hoạch tiến về Thành Phố Huế, Đại Tá Phạm Văn Chung -LĐT 369/TQLC- đă tín nhiệm, giao phó, và xác nhận NT Phúc có quyền hạn như một Lữ Đoàn Phó để phối hợp chỉ huy các TĐ5 và TĐ9/TQLC khi t́nh thế diễn biến phức tạp và bất ngờ.

Bản tính đạo đức, liêm khiết, quan tâm đến thuộc cấp, xông xáo trên chiến trường với những tính toán có tính chiến thuật ... Thật sự trong thâm tâm tôi rất an ḷng khi thi hành mọi nhiệm vụ mà NT Phúc giao phó với tất cả ḷng nhiệt thành của tuổi trẻ v́ rất tin tưởng vào những quân lịnh có tính toán sắc bén của NT.
Ngoài chiến trường, khả năng chỉ huy và tài lãnh đạo của cấp chỉ huy là quyết định sống chết cho thuộc cấp, NT Nguyễn Xuân Phúc đã hoàn thành nhiệm vụ đó một cách xuất sắc khiến thượng cấp, đồng đội và thuộc cấp đều mến phục.

Mạng sống trời ban cho thật đáng quý, nhưng càng quý hơn khi một cấp chỉ huy biết chia xẻ mạng sống với thuộc cấp vào giờ phút tử sinh.

Sáng ngày 29/3/1975, chính xác là từ 7-10 giờ sáng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369/TQLC Nguyễn Xuân Phúc cùng Lữ Đoàn Phó Đỗ Hữu Tùng ngồi bên những máy truyền tin ngay bờ biển Non Nước mà không quan tâm tới việc những quân nhân khác đang lên 2 chiếc tàu HQ đậu gần đó, vì các Niên Trưởng còn liên lạc và chờ đứa con, TĐ9/TQLC của Thiếu Tá Lâm Tài Thạnh, đang từ xa rút về. Nhưng buồn thay, VC đã pháo kích trên bãi biển và tàu HQ rồi 2 NT Phúc Tùng đã biến mất trong khói lửa mịt mù! TĐ9/TQLC mất liên lạc với cấp chỉ huy đành tử thủ và quyết tử với địch quân đông gấp nhiều lần.

Khi hay tin NT Nguyễn Xuân Phúc đă biến mất, nhưng tôi cứ thầm mong có một phép lạ nào đó để NT sẽ trở về . NT thật xứng đáng một cấp chỉ huy tài ba, một đồng đội, một người anh ĐÁNG KÍNH.
 

Niên Trưởng Phạm Văn Sắt
 



Trong số những Khóa 16/VB t́nh nguyện về TQLC, Niên Trưởng Phạm Văn Sắt là một trong những người nổi bật của khóa, NT Sắt bị thương đến 5 lần: 1 lần trong chức vụ đại đội trưởng, và 4 lần khi là tiểu đoàn phó TĐ3/TQLC. Trên người NT những vết thương chiến tranh ghi dấu khắp nơi, đặc biệt vùng bụng với những vết sẹo dài, sần sùi. NT là người được giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng trước tiên, đồng thời với NT Nguyễn Xuân Phúc, cho nên, cuộc đời binh nghiệp của NT cũng rất sôi động khắp 4 vùng chiến thuật, góp nhiều chiến công cho Binh Chủng. Nhưng điều đáng nói, đáng làm gương cho... là nghệ thuật lãnh đạo và chỉ huy của NT trong quân ngũ cũng như bên hành chánh.

Lần đầu tiên khi tôi tŕnh diện NT Phạm Văn Sắt tại TĐ8/TQLC tân lập, tôi có cảm giác vừa an tâm và kính nể v́ NT đón tiếp tôi rất ân cần, dặn ḍ rất chi tiết của một cấp chỉ huy quan tâm đến thuộc cấp và đơn vị.

Tại doanh trại, NT thường bất ngờ xem xét nơi ăn chỗ ở, đặc biệt bếp ăn của binh sĩ, khuyến khích các đại đội tổ chức các hoạt động thể thao, thể dục nhằm tăng cường thể lực và tạo không khí vui tươi trong đơn vị.

Trong thời gian Tiểu Đoàn 8 hành quân ở Nông Sơn, NT ưu tiên cấp phép cho các quân nhân quê quán quanh vùng Quảng Nam, Thừa Thiên. Đây là một yếu tố tâm lý chỉ những người biết lãnh đạo mới nhìn ra, NT tự tin vào thuộc cấp không sợ anh em đảo ngũ mà chính thuộc cấp đã tin tưởng hơn nữa vào cấp chỉ huy.

Sau mỗi lần hành quân về lại hậu cứ, thường đoàn xe đến cổng trại vào xế chiều hoặc rất khuya. Theo thông lệ, các đại đội đều viết sẵn giấy phép để cấp cho anh em quanh vùng Sài G̣n – Gia Định tạm về thăm gia đ́nh ngay sau những ngày mong đợi. Những ngày sau đó, tùy tình hình nhiệm vụ trong tương lai và biết được ý định của Bộ Tư Lệnh, Tiểu Đoàn Trưởng Phạm Văn Sắt cấp 5 ngày phép đặc biệt cho tất cả các quân nhân. Trong không khí vui mừng, các quân nhân lại được xe GMC của tiểu đoàn chở ra đến chợ Thủ Đức và ngược lại, tiết kiệm thời gian và túi tiền cho anh em hơn cả tiếng đồng hồ thay vì phải đi xe Lam 3 bánh. NT là người cuối cùng rời doanh trại, sau khi đă đi kiểm tra pḥng ngủ của các đại đội, để yên tâm rằng tất cả quân nhân đă rời hậu cứ.

Nghe có vẻ “lý tưởng hóa” cấp chỉ huy, nhưng đây là sự thật đã được tác giả Giang Văn Nhân, một sĩ quan kỳ cựu của TĐ3/TQLC, ghi lại trong tác phẩm “CHẶNG ĐƯỜNG NỐI TIẾP”, tôi xin trích đoạn như sau (*):
***
-Thiếu Tá Sắt đi lướt qua phía sau các đại đội, Ông nhìn và lắng nghe tâm sự vụn vắt và ước muốn trong mấy ngày ở hậu cứ của các anh em binh binh sĩ tỉ tê khi đang lau chùi vũ khí...hiểu được những ước mong thầm kín của anh em binh sĩ sau mỗi lần hành quân về, khi đi ngang qua tấm bảng “CẤM TRẠI”, Ông đứng lại, nhìn tấm bảng hồi lâu, rồi Thiếu Tá Sắt ra lệnh cho người Hạ Sĩ Quan trực: “Nhờ Trung Sỉ cất tấm bảng “Cấm Trại” dùm tôi. Sau đó Ông cho lệnh tập họp các đại đội và nói:

-Tiểu Đoàn sẽ xả trại và cấp 5 ngày phép đặc biệt cho mọi người. Tôi muốn 5 ngày là 5 ngày, anh em phải về trình diện cho đầy đủ...

Niềm vui bất ngờ, tất cả la to như muốn vỡ bầu không khí... doanh trại dần dần thưa thớt, Th/Tá Sắt đi vòng quanh khu nhà ở của binh sĩ để kiểm soát, nghe có tiếng chuyện trò văng vẳng, ông bước vào, 4 người lình vội đứng nghiêm chào, Ông thắc mắc hỏi:

-Các em đã nhận giấy phép chưa?

-Thưa Tbiếu Tá chúng em đã nhận rồi.

-Nếu có rồi thì các em rời khỏi đây ngay..

-Quê chúng em ở xa, không có tiền nên ở lại trại có cơm ăn chỗ ngủ.

-Các em đi theo tôi...

Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng dẫn 4 người lính xuống Ban Quân Lương và chỉ thị cho nơi đây làm giấy ứng tiền lương trước cho 4 anh em này và cả những ai cần tiển để về thăm gia đình ở xa...

Thiếu Tá Phạm Văn Sắt đã mang niềm vui bất ngờ cho TĐ3/TQLC và đây là chuyện hiếm có ở cấp tiểu đoàn trong Binh Chủng TQLC.
***.
(*) Đây chỉ là một trích đoạn trong “Niềm Vui Bất Ngờ” của tác giả Giang Văn Nhân nên tôi không thể diễn tả hết niềm vui sướng của người lính được đi phép sau mỗi lần hành quân trở về, dù đó là quyền lợi của người lính, nhưng vì lý do hành quân nên “quân bị hành” thường bị cấp trên quên những ngày phép quý giá đó.

Kỳ diệu thay, đại đa số anh em trong khu vực Biệt Khu Thủ Đô và các tỉnh lân cận đều về đúng phép, một số nhỏ ở xa như miền Trung trễ vài ngày v́ phương tiện vận chuyển đều được thông cảm.

V́ bị thương nặng, cần dưỡng thương lâu dài, năm 1968, NT Sắt được thượng cấp đề bạt chức vụ Quận Trưởng Quận Thủ Đức. Thời gian giữ chức vụ hành chánh này NT cũng được dân và quân trong quận truyền tai nhau về nhiều giai thoại như sau:

-Ông Quận không cho bà xă quá giang xe Jeep của quận.

-Nghiệp đoàn xe Lambretta 3 bánh Thủ Đức được ông Quận nâng đỡ bằng cách giảm thuế. Nhớ ơn và kính phục họ mang quà đến mà ông Quận không nhận.

NT đă có lần tâm sự với tôi một cách chân t́nh và cởi mở:

-Anh về Quận Thủ Đức gần Sài G̣n mà có xin ai đâu, biết rằng trong phạm vi Quận có nhiều cơ sở kỹ nghệ, với máu nhà binh trong người nên anh cho lực lượng quân sự địa phương tăng cường pḥng thủ, canh gát cẩn mật các cơ sở đó. V́ nghĩ rằng: ông Quận là TQLC, nếu để VC phá hoại các cơ sở kinh tế huyết mạch này th́ mất thể diện TQLC. Các ông giám đốc cám ơn công việc của anh, lại đem quà biếu. Anh phải giải thích đó là việc phải làm của quận và anh từ chối.

Tôi nghĩ cũng v́ các việc làm phải, đạo nghĩa, thuận ḷng dân nên sau khi đi tù CS về, NT và gia đ́nh vẫn sinh sống b́nh an trong khu vực Thủ Đức.

Một thời gian sau ngày ngưng bắn 28 tháng 1 năm 1973, SĐ/TQLC có kế hoạch thay đổi các đơn vị trưởng. Khi được tham khảo về việc NT sẽ ra nắm lại chức vụ tiểu đoàn trưởng, NT đă khéo léo từ chối với lư do:

-Xin ưu tiên cho anh em trẻ v́ họ rất có công trong thời gian qua.

Tấm ḷng của NT thật bao dung, thông cảm những ước mong trong binh nghiệp của tầng lớp trẻ đă có nhiều hy sinh, đóng góp công trận lớn trong những năm chiến trường thật khốc liệt 1971-1972.

Trong thời gian đi tù ngoài Bắc, MX Nguyễn Cao Nghiêm K20 lại cho tôi biết NT Sắt hay giành gánh phần lao động nặng thay cho đàn em như: khiêng cây th́ khi nào NT cũng chịu phần gốc nặng hơn và buộc Nghiêm phải vác đầu ngọn v́ nhẹ hơn...

NT xử sự với thuộc cấp cả quân lẫn dân như một người anh, một công bộc rất chí t́nh và tận tụy.

Thay Lời Kết.

Các NT là h́nh ảnh của lớp sĩ quan trẻ được đào tạo sau Hiệp Định Genève 1954: có học thức, chiến đấu có lư tưởng, trưởng thành trong chiến trận, do được hấp thụ tinh hoa của nền giáo dục học đường và đào tạo quân sự của Việt Nam Cộng Ḥa.

Những kỷ niệm của bản thân, hoặc được bạn bè kể lại trên được ghi chép rất chân thật, từ đáy ḷng, không có màu mè thêm bớt về NT Nguyễn Xuân Phúc và NT Phạm Văn Sắt. Cho nên, tôi cảm thấy vô cùng may mắn được phục vụ dưới quyền của hai cấp chỉ huy với đầy đủ tài lănh đạo chỉ huy, liêm khiết, nhạy bén về chiến thuật, và là những tấm gương sáng cho quân nhân dưới quyền. Các Anh sẽ là những vị chỉ huy cao cấp và lãnh đạo lý tưởng trong tương lai, nhưng rất tiếc...!

Những kỷ niệm và những bài học từ các Anh làm cho ḷng tôi ấm lại và hănh diện mỗi khi nghĩ và kể lại cho bạn bè trong và ngoài binh chủng về hai vị Niên Trưởng thuộc K16/VB: Nguyễn Xuân Phúc và Phạm Văn Sắt.

MX Lê Quang Liễn K20.
Houston, Tháng 3 năm 2018

 

 


Văn


Hỏi ngă chánh tả tự vị
Cách sử dụng "I" và"Y"...
Cải cách tiếng Việt
Dấu "hỏi & ngă" trong tiếng Việt
Luật dấu hỏi & ngă
Gạch nối trong tiếng Việt
Xưng hô tiếng Việt...


Các cấp chỉ huy và đồng đội TQLC

Lạng Sơn Thiếu Tướng Bùi Thế Lân
Tango Đại Tá Nguyễn Thành Trí
Sài G̣n Đại Tá Tôn Thất Soạn


Những Niên Trưởng đáng kính
Tháng Ba lại về
Nỗi ḷng băn khoăn của lớp người VNCH lưu vong thế hệ thứ nhất
Năm Tị nói chuyện Rắn
Ngậm ngùi,,, Tiếc thương...
Chuyện t́nh buồn
Ḿnh ơi! Em muốn...
Đây Long Giao, Suối Máu
Người hùng TQLC Trần Ba
Poncho
Quân Cán Chính VNCH chết trong trại tù "Cải Tạo"
Bão Beryl và Đại Hội 2024
Đại Hội 2024: Những tấm chân t́nh của Đại Gia Đ́nh TQLC
Người về từ thành cổ
Đại Hội TQLC 2024 tại Houston
Houston - Chuyện bên lề
Thương Phế Binh, Ông Là Ai?
Ḷng biết ơn nhân ngày Lễ Những Người Cha 2024
Một ngày không thể quên
Giầy Saut trong tử địa
Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc
Tôi đi khám Bás Sĩ
Bóng người hay bụi sương?
Lần đầu nhập trận
Cố Trung Tá Nguyễn Văn Nho
Trước sau như một!
Louisiana 2023 – Rằn Ri gặp mặt
Môt ban nhạc lạ đời
Những điều ít người biết về bài hát "Kỷ vật cho em"
An Dương
Ngược ḍng thời gian
Người lính cuối cùng
T́m tự do
Tù cải tạo…Những nỗi buồn khó phai
Danh sách Quân Dân Chính chết trong tu cải tạo
Đón xuân này nhớ xuân xưa
"Tù cài tạo" - Những nỗi vui buồn khó quên
Trở lại Cổ Thành
Những ngộ nhận về chiến tranh Việt Nam từ phía Hoa Kỳ
Gặp gỡ Chú Long Hồ
Tango: Ngày này năm xưa! Ngày này năm nay!
Saigon đă tṛn năm
Ngày về từ rừng núi Hiệp Đức
Trường Sơn bỏ lại sau lưng
Cuộc hành tŕnh
Bên kia bờ sông Thạch Hăn
Chung g̣ng định phận
Kỷ niệm cổ thành Đinh Công Tráng - Quảng Trị 1972
Thiên hùng ca dựng một ngọn cờ
Cố vấn TQLCHK trao Bronze Star cho NT Đặng Bá Đạt
Nhật Kư Cali: Ngàn năm mây bay
Quỳ hôn đất thân yêu
Sau 46 năm nước mắt vẫn c̣n rơi!
Chuyện mắc dịch
Vui buồn cùng Cọp Biển
Cái ǵ của Cesar … Cái ǵ của Thương Phế Binh …
Hỏng rồi tiếng nước tôi !!! Phần 1 - Phần 2
Bạn tôi, người y tá tên Ri
Hai bà chị
Trận đánh tháng 3/75 Quân Khu I
Thu hát cho người
Sự nghiệp 4 chữ, lư tưởng 2 chữ
TĐ2/TQLC Tiêu diệt chiến xa CSBV thuộc Trung Đoàn Tăng-Thiết Giáp 202
T́nh với Nghĩa
Xuân ở nơi nào?!
Tuổi 70, Chán mớ đời!
Họ nhà "Cu"
Con sáo bạc má và người tù
Quân khu IX ơi. Chào mi!
Chuyện về bức tượng TQLC
Tháng 3, kư ức về anh
Ngày ra trại
Một buỗi chiều xuân
Đêm xuân Đà Lạt
Nhánh mai vàng
Phục Hưng Tự