MX LÊ CÔNG TRUYỀN
KBC 3331
Tháng 3 năm 2005, 142 đồng hương hiện định cư tại Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi đã tổ chức “Chuyến Đi Về Bến Tự Do 2005” để trở lại thăm Pilau Bidong thuộc Liên bang Mả Lai Á và Galang thuộc Quần Đảo Nam Dương. Phái đoàn 142 người nói đây đã dựng “Bia Đài Tri Ân và Tưởng Niệm” tại hai Trại Tị Nạn để ghi ơn các cá nhơn, các tổ chức và các quốc gia đã tận lực giúp đở thuyền nhân đồng thời để tưởng niệm thuyền nhân qua đời trên hai đảo và bỏ mình trong những chuyến vượt biển trốn chạy chế độ cộng sản. Liền sau đó, Hà Nội phản ứng bằng cách vận động với hai chánh phủ liên hệ để phá bỏ các Bia Đài. Tiếc thay, các quốc gia liên hệ đã thỏa mãn cuồng vọng vô thần và phi nhân của họ.
Bây giờ, đất nước sắp rơi vào nanh vuốt của kẻ thù truyền kiếp
phương bắc:
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bị Hồ Chí Minh dâng cho Mao
Trạch Đông vào năm 1958 để mua chịu vũ khí hiện đại nhằm tấn chiếm
Miền Nam; trên 700 cây số vuông dọc biên giới và trên 10 ngàn cây số
vuông hải phận đã bị CSVN dâng cho Trung cộng vào cuối năm 1999 và
năm 2000; “China Town” ở Lạng Sơn và các nơi khác, các “làng người
Tàu” mọc lên như nấm trên ba Miền Đất Nước; Cao nguyên Trung Phần đã
bị CSVN dâng cho Trung cộng để bọn này thiết lập căn cứ chiến lược
hầu trấn áp, thôn tính không những các quốc gia thuộc bán đảo Đông
Dương mà còn cả Đông Nam Á nữa.
Trước hiểm họa mất nước gần kề, CSVN không đặt trọng tâm đối phó bằng cách trở về với Dân Tộc mà lại đàn áp Dân Tộc và gởi công hàm ngoại giao tháng 7 năm 2009 vận động chánh phủ Nam Dương dẹp bỏ các di tích tị nạn (Nghĩa trang, Chùa chiền, Nhà thờ, Miểu Ba Cô…) trên đảo Galang và tiếp tục ngụp lặn trong biển trầm luân “xã hội chủ nghĩa” không bến bờ! CSVN vô thần không hề biết lời Phật dạy: “KHỔ HẢI VÔ BIÊN, HỒI ĐẦU THỊ NGẠN” (Biển khổ minh mông, quay đầu thấy bến). Tại sao mãi mãi lìa xa Bến Bờ Dân Tộc để phụng thờ “16 chữ vàng” vô nghĩa và lừa bịp? (“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương lai”).
Tháng 7 năm 2005, một người tên Minh Thúy đã gởi điện thư vào các
diễn đàn xuyên tạc lý do khiến đồng bào chúng ta liều chết trốn chạy
chế độ cộng sản: “Mọi người trên thế giới đừng quên rằng hàng ngàn
người Việt Nam ra đi bị chết chìm trên biển là do mắc mưu lừa đảo,
tuyên truyền của Mỹ khi chúng rút chạy khỏi Việt Nam. Người Mỹ
nói dối rằng VC sẽ tắm máu khi chúng vào Saigon. Nhưng thực tế
thì không phải vậy” (sic).
Sau đây xin có vài suy nghĩ về thái độ của CSVN đối với các Bia
Đài, Trại Tị Nạn Galang và ý đồ xuyên tạc lý do vượt biển của đồng
bào chúng ta.
A. CSVN và Các Bia Đài và Trại Tị Nạn Galang
Thật ra, không ai ngạc nhiên về cách ứng xử của CSVN trước các Bia
Đài và các Trại Tị Nạn. Tại sao? Vì CS mắc phải hai chứng bịnh
nan y: hận thù và sợ hãi!
Trước nhiều hành động của CSVN mà người có chút lương tri không bao
giờ dám làm, người ta phải tự hỏi: ‘Tại sao phải làm như thế?” Tại
sao sau khi chiếm xong Tổng Y Viện Cộng Hòa, cán binh cộng sản tống
xuất các thương bệnh binh VNCH đang ở trong tình trạng nữa sống, nửa
chết? Tại sao “tập trung cải tạo” cả các vị sĩ quan mù cả đôi mắt
hoặc cụt cả một chân? Tại sao tàn phá Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
và các Nghĩa Trang Quân Đội tại các địa phương khác? Tại sao lại xua
trẻ vị thành niên Miền Nam ra chiến trường để làm bia đỡ đạn cho bộ
đội CS? Các hành động ác nhơn thất đức này chỉ có thể được giải
thích bằng hai chữ “trả thù”: CS trả thù người chết lẫn người sống
và trả thù luôn cả những ngưòi đang hấp hối vì tất cả những vị này
đã từng hy sinh hạnh phúc đời mình để bảo vệ chánh nghĩa quốc gia,
chống tà thuyết vô thần CS.
Trở lại với các Bia Đài tại các Trại Tị Nạn. Các tấm bia ấy
không hề lên án tội ác của chế độ cộng sản đối với Dân Tộc mà chỉ
ghi những hàng chữ tưởng niệm đồng bào đã qua đời trên đảo và chết
thảm trên biển cả cùng ghi ơn các tổ chức quốc tế và chánh phủ cùng
công dân các quốc gia đã hết lòng giúp đở người Việt tị nạn.
Thế tại sao Hà Nội lại làm áp lực để các chánh phủ liên hệ triệt hạ
các Bia Đài? Tại sao lại vận động chánh phủ Nam Dương xóa bỏ
mọi di tích của Trại Tị Nạn Galang? Chúng ta chỉ có thể
trả lời câu hỏi này bằng bốn chữ: “trả thù” và “sợ hải”: Hà Nội trả
thù thuyền nhân vì thuyền nhân đã “bỏ phiếu bằng thuyền” không chấp
nhận chế độ cộng sản vô thần! Hà Nội sợ công luận thế giới lên án
nên muốn xóa bỏ mọi chứng tích về sự bạo tàn, vô nhơn đạo của họ mà
các Bia Đài và các Trại Tị Nạn là những chứng tích hùng hồn nhứt!
Triệt hạ các Bia Đài, dẹp bỏ các di tích tại các Trại Tị Nạn, Hà Nội
đã thỏa mản được bản tính hận thù và nghĩ rằng họ đã triệt tiêu được
các chứng tích về tội ác của họ!
Họ đã lầm!
Việc CSVN làm áp lực để chánh phủ các quốc gia liên hệ triệt hạ các
Bia Đài và vận động Chánh phủ Nam Dương xóa sạch các di tích tại
Trại Tị Nạn Galang đã gây nên một ngọn “sống thần câm phẩn” không
những trong Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản mà cả trong đại
khối đồng bào trong nước. Đối với công luận thế giới, kể cả
công dân của hai quốc gia liên hệ, phản ứng nói trên của Hà Nội là
phản ứng xuẩn động của bọn cường đồ, đáng bị khinh miệt!
Chuốc lấy những hậu quả tai hại nói trên, Hà Nội cũng không triệt
tiêu được chứng tích về tội ác của họ. Chứng tích đó không
những được nằm trên bia đá, tồn động tại các Trại Tị Nạn mà còn được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Đó là “bia miệng”. “Bia miệng” thì không thể nào xóa bỏ hoặc
phá hủy được:
“Trăm năm bia đá cũng mòn
“Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Các Bia Đài, các Trại Tị Nạn có thể còn hoặc không còn trên các đảo
Galang và Pilau Bidong, nhưng chắc chắn chúng sẽ mãi mãi nằm trong
lòng người dân Việt thuộc mọi thế hệ vì tội ác của csHN đã trở thành
những sự kiện lịch sử. Nếu CSVN có dũng khí, nhơn dịp 36 năm nhìn
lại, gởi công hàm ngoại giao cám ơn chánh phủ và công dân của hai
quốc gia liên hệ đã tận lực cứu giúp đồng bào và chỉ thị đại sứ của
họ tại Mã Lai và Nam Dương đến đặt vòng hoa tưởng niệm và cúi đầu
trước các Bia Đài để bày tỏ lòng sám hối của chế độ và xin các quốc
gia liên hệ trùng tu các Trại Tị Nạn thì, theo chúng tôi nghĩ, họ
lại có thể làm cho những người nhẹ dạ tin rằng họ thật sự ân hận về
sự tàn bạo của họ! Tiếc rằng họ không có cái dũng khí đó; họ chỉ có
can đảm ra lịnh cho công an biên phòng rượt theo và xả súng máy để
“diệt gọn” các con tàu bất hạnh chở những ngưòi dân bạc phước đang
tìm cách lánh xa ngục tù cộng sản! Bây giờ họ lại hèn hạ, đốn mạt
van xin chánh phủ Nam Dương a tòng với họ xóa bỏ mọi di tích tại
trại tị nạn Galang. Nếu CSVN có tài ngoại giao “ưu việt” thì
hãy vận động với chánh quyền Hoa Kỳ dẹp bỏ Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân
Cộng Sản Tại Thủ Đô Hoa Thạnh Đốn, Tượng Đài Thuyền Nhân tại
Westminster, vận động với chánh phủ Canada dẹp bỏ Tượng Mẹ Bồng Con
Trốn Chạy Chế Độ Cộng Sản tại Ottawa và vận động chánh phủ nước Đức
đập phá Tượng Đài Tị nạn Hamburg v…v…
B. Lý Do Vượt Biển Của Đồng Bào
Sau khi tạo áp lực để chánh phủ hai quốc gia liên hệ phá bỏ Bia Đài,
Hà Nội đi bước kế tiếp nhằm van xin chánh phủ Nam Dương xóa bỏ mọi
di tích tại Trại Tị Nạn Galang và sai cán bộ của họ xuyên tạc lý do
vượt biển đích thực của đồng bào: sự tàn bạo của chế độ.
Theo thông tấn xã Bermana, từ năm 1978 đến năm 1990, có 245,133
thuyền nhân đã tới đảo Pilau Bidong. Ngoài ra, còn phải kể
nhiều trăm ngàn đồng bào đã tới Nam Dương, Thái Lan, Úc Đại Lợi, Phi
Luật Tân, Hongkong, Tân Gia ba... Mặt khác, theo thống kê của Liên
Hiệp Quốc, khoảng 50% đồng bào vượt biển đã lấy đáy biển làm huyệt
mộ. Như vậy, đã có hàng trăm ngàn - chớ không phải chỉ có hàng
ngàn - “người Việt Nam ra đi bị chết chìm trên biển”!
Tại sao đồng bào phải bỏ xứ mà đi để chết thảm trên biển cả?
Đồng bào Miền Bắc liều chết trốn chạy “thiên đàng xã nghĩa” qua ngả
Hongkong có bị “mắc mưu lừa đảo tuyên truyền của Mỹ khi chúng rút
chạy khỏi Việt Nam” không? Họ có sợ bị “tắm máu khi VC vào Saigon”
không?
Dĩ nhiên là không bởi lẽ không có Mỹ ở Miền Bắc và không còn ai sợ
tắm máu nữa vì còn máu đâu để mà tắm sau trên hai mươi năm đất Bắc
bị đảng CS thống trị với nào là “cải cách ruộng đất”, rồi lại “chánh
sách sửa sai”, nào là “đánh tư sản mại bản”, nào là “Nhân Văn Giai
Phẩm”, nào là “Quỳnh Lưu”, nào là “chỉnh phong”, nào là “cán bộ tập
kết phá bót cảnh sát Bờ Hồ”, nào là “Học sanh Nam bộ khởi loạn ở Ngã
Tư Sở” và biết bao là máu và nước mắt đã đổ trong trại Đầm Đùn và
các trại tù khổ sai khác!
Tại Miền Nam, theo thông tấn xã Bermana, đồng bào ồ ạt vượt biển
trong thời khoảng từ 1978 đến 1990. Trong khoảng thời gian nói đây,
Mỹ nào còn ở Việt Nam để mà “lừa đảo tuyên truyền”! Năm 1978 và các
năm kế tiếp, không phải vì sợ tắm máu mà đồng bào vượt biển bởi lẽ
CSVN đã hoàn tất “nghiệp vụ tắm máu”: bao nhiêu doanh nhơn (Tư sản
mại bản) đã bị sát hại? Mấy trăm ngàn quân cán chánh VNCH (QCC) đã
bỏ mình trong vùng rừng núi Bắc Việt? Bao nhiêu ngàn vợ con QCC đã
gục ngã tại các “vùng kinh tế mới”? Bao nhiêu ngàn con cái của QCC
đã làm bia đở đạn cho cán binh CS ở biên thùy phía bắc và tại biên
giới phương nam?
Không bị “Mỹ lừa đảo, tuyên truyền’, không sợ “tắm máu”, thế thì
điều gì đã đẩy đồng bào ra biển cả để chết thảm? Xin thưa: chế độ
cộng sản! Người viết xin nêu một sự kiện lịch sử để thấy rằng người
Việt Nam lúc nào cũng có thể vượt biển để tìm sanh lộ trong tử lộ.
Vượt biển hay không vượt biển, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sức
chịu đựng của đồng bào dưới chế độ họ đang sống.
Từ ngàn xưa, tiền nhơn chúng ta đã từng vượt biển để tránh bị tiêu
diệt. Đó là trường hợp của hậu duệ nhà Lý. Trưóc chánh sách
“nhổ cỏ phải nhổ tận gốc” của Trần Thủ Độ, con cháu nhà Lý đã phải
liều chết vượt biển sang Triều Tiên tị nạn. Lúc bấy giờ phương
tiện vượt sóng đâu có tối tân như ngày hôm nay. Nhưng ở lại
chắc chắn phải chết; liều mạng ra đi may ra có thể sống còn; thế là
tiền nhân chúng ta quyết định ra đi!
Thế nhưng:
- Dưới thời Bắc Thuộc, ngoài những hình phạt dã man, bọn Thái thú
Tàu còn khai thác sanh mạng của người dân để thủ lợi. Thế
nhưng người dân không hề vượt biển! Tại sao? Vì, theo tôi
nghĩ, còn có thể chịu đựng được.
- Dưới thời Pháp Thuộc gần cả trăm năm, thực dân đã đàn áp dã man
các cuộc khởi nghĩa của người quốc gia yêu nước. Thế nhưng người dân
không hề vượt biển! Tại sao? Vì, theo tôi nghĩ, còn có thể
chịu đựng được.
- Dưới thời Nhựt chiếm đóng, bọn quân phiệt áp dụng những hình phạt
cực độc đối với người Việt. Thế nhưng người dân không hề vượt
biển! Tại sao? Vì, theo tôi nghĩ, còn có thể chịu đựng được.
Thế tại sao:
- Sau khi Việt minh CS tiếp thu Miền Bắc, hàng triệu đồng bào đã gạt
lệ rời bỏ quê hương vào Miền Nam trốn chạy chế độ cộng sản?
- Sau khi CS cưởng chiếm Miền Nam, hàng triệu đồng bào đã liều chết
bỏ nước ra đi với tâm niệm: Thà làm mồi cho thú dữ, thà bỏ thây nơi
rừng sâu núi thẫm, thà lấy biển cả làm huyệt mộ còn hơn phải sống
dưới chế độ cộng sản để trở thành những người tù trừ bị, những tử
tội dự khuyết?
- Trong thời chiến trước năm 1975, nơi nào có bóng cờ máu của
“đảng”, đồng bào liều chết trốn chạy về hướng Quốc Kỳ Việt Nam Cộng
Hòa?
Xin trả lời ba câu hỏi nêu trên: Tại vì chế độ cộng sản bạo tàn, hà
khắc, sâu độc, nham hiểm, vô luân, ác nhơn, thất đức gấp vạn lần bọn
Tàu, bọn Pháp, bọn Nhựt. Toàn dân là những người tù dự khuyết,
quần chúng là thành phần tử tội trừ bị. Chính bọn công an còn
lén lút sơn trên vách nhà tập thể của chúng tại trại tù Z30A ở Long
Khánh 8 chữ: “Tù trong là ngụy, tù ngoài là ta!” mà một người bạn
cựu tù nhân chánh trị (HO) “trại viên” đã nhận lịnh chỉ huy trại kín
đáo xóa 8 chữ “cực kỳ phản động” nói trên.
Nói khác đi, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một nhà tù
“vĩ đại”, trong đó có hằng hà sa số nhà tù nhỏ được xây cất kiên cố
trên khắp ba Miền đất nước!!!
Những người cộng sản vô thần trong Bắc Bộ Phủ tin rằng không có thiên đường địa ngục chi cả, chỉ có “thiên đường cộng sản” mà đồng bào chúng ta đang trốn chạy và không có một thế giới nào khác, ngoài “thế giới đại đồng” mà họ dùng xương máu đồng bào chúng ta để góp phần xây dựng! Đối với họ, chết là hết; sau cái chết là một khoảng trống vô tận, minh mông, mịt mù: “Après la mort, c’est le néant”. Với “đức tin” đó và với câu tâm niệm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” (La fin justifie les moyens), khi còn tại thế, họ làm mọi hành động, mà người hữu thần cho là ác nhơn thất đức, để thỏa mãn dục vọng của họ: trả thù-báo oán, giết người-cướp của, diệt chồng-đoạt vợ. Họ không hề biết các thành ngữ “vô dục, cực lạc”, “tri túc thường lạc”.
Trong trường hợp các Bia Đài và các Trại Tị Nạn, cứu cánh là che dấu
tội ác của họ đối với dân tộc Việt Nam nói chung và đối với thuyền
nhân nói riêng; phương tiện xử dụng là xuyên tạc lý do vượt biển của
đồng bào chúng ta và vận động xóa bỏ các di tích trong các Trại Tị
Nạn - một sự vận động tương tự như phá đình, phá miểu, phá các
nơi thờ phượng của
- 6 -
các tôn giáo mà họ đã, đang và sẽ tiếp tục phá nếu họ vẫn còn tồn
tại. Cả hai phương tiện đều xúc phạm hương linh của thuyền
nhân chết trên biển cả và qua đời trên hai Đảo. Nhưng cả hai
phương tiện xử dụng đều tỏ ra vô hiệu vì như đã viết bên trên:
“Trăm năm bia đá cũng mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ!”
Hồ Chí Minh đã đưa con thuyền Việt Nam vào “biển khổ trầm luân xã hội chủ nghĩa” vô bến bờ. Nếu csvn tiếp tục ngụp lặn trong biển trầm luân ấy thì con thuyền Việt Nam sẽ trôi dạt vào bến bờ “Đại Hán”.
Hãy quay về với Dân Tộc bằng cách: vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê, giải thể đảng csvn, xé bỏ Hiến pháp năm 1992, ném bỏ “16 chữ vàng” vô nghĩa để còn thấy bến bờ hầu tránh đại họa do bọn bành trướng Bắc kinh mang đến phủ trùm ĐẤT NƯỚC và DÂN TỘC. Đức Phật đã dạy, mà người cộng sản vô thần làm sao biết được: “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn”.
Lê Công Truyền
TQLC – KBC 3331
10 tháng 01 năm 2010
Điếu văn vĩnh biệt cựu Đại Tá Nguyễn Năng Bảo
Những ngày hành quân Cồn Thiên
Người lính VNCH sau 30 Tháng Tư
Người Tây phương tính năm lịch theo mặt trời
Một hội nghị với nhiều ý nghĩa
Tấm thẻ bài cho người nằm xuống
TĐ4 TQLC và Những ngày tháng sau cùng
Thôi ! Mình về Linh Xuân Thôn đi em
Tiến trình thành lập Chiến Đoàn và Lữ Đoàn