NGHỊ QUYẾT 36: PHÂN TÍCH VÀ NHẬN ĐỊNH

MX Lê Công Truyền

 [“Xứ sở bao dung, sao thật lắm thần dân ĺa xứ! Biển Thái B́nh bồng bềnh thuyền định mệnh. Nhắm mằt đưa chân không hẹn ngày về!” (Nguyễn Duy - Tổ Quốc Nh́n Từ Xa)]

Nghị Quyết số 36-NQ/TW ngày 26/03/2004 (NQ36), do Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam (VC) ban hành cách nay trên 4 năm, hiện vẫn c̣n được họ tiếp tục nỗ lực thi hành tại hải ngoại. Do đó, chúng tôi nghĩ, nó vẫn c̣n là một vấn đề thời sự đáng cho chúng ta lưu tâm và đề cao cảnh giác. Văn hào người Nga, ông Alexandre Soljenitsyne, đă viết về cộng sản: “Khi nghe CS nói láo, ta phải có can đảm đứng lên nói nó nói láo. Nếu ta không có can đảm đứng lên nói nó nói láo th́ ta phải có can đảm đi ra khỏi chỗ nó đang nói láo. Nếu ta lại không dám phản đối bằng cách bỏ đi để khỏi nghe nó nói láo th́ ít ra ta phải có cái lương thiện tối thiểu là không kể lại cho người khác nghe những lời nói láo của nó!” Kẻ viết không kể lại cho người đọc những ǵ VC viết láo trong NQ36 mà phân tích nội dung của nó để nói thẳng rằng NQ36 chứa toàn những điều lừa dân dối chúng, đồng thời bày tỏ mối quan tâm trong việc đề cao cảnh giác trước những sự lừa bịp của nghị quyết.

A. Phân tích và nhận định nội dung của NQ36.

NQ36 gồm có 4 phần. Cuối những câu có chữ (NQ36) là nguyên văn của Nghị quyết.

1. T́nh h́nh và công tác đối với người VN ở nước ngoài trong thời gian qua.

1a) “Cộng đồng người VN ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng t́m kiếm đối tác và làm cầu nối với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Nhiều trí thức có tŕnh độ học vấn và chuyên môn cao, một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan hệ với các cơ sở kinh tế, khoa học ở nước sở tại.” (NQ36)

VC luôn luôn dị ứng với sự thật. Đây là lần đầu tiên họ chịu nói sự thật để mong lợi dụng những người nhẹ dạ, dễ tin! Họ cần biết một sự thật khác: Nếu Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS không vượt thoát chiếc ṿng “Kim cô” Mác-Lê do Hồ Chí Minh mang về tṛng lên đầu dân tộc và ngục tù “xă hội chủ nghĩa” mà lăo đă du nhập để giam cầm toàn dân th́ cộng đồng đó có được những điều tốt đẹp như NQ36 đă mô tả hay không? Đây chỉ là những lời phỉnh lừa nhằm vơ vét, đục khoét, cướp sạch tất cả những ǵ chúng ta tạo dựng được trong hơn 33 năm qua cũng như họ đă từng trấn lột đồng bào trong nước qua ba vụ đổi tiền và đánh tư sản cũng như tước đoạt tài sản của những Người Việt Tị Nạn CS v́ tin họ mang tiền về đầu tư. Với kinh nghiệm quá phong phú về VC, Cộng Đồng chúng ta nhứt định sẽ không rơi vào bẩy sập của NQ36!

1b) “Mặc dù sống xa tổ quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ ǵn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, ḍng tộc, gắn bó với gia đ́nh, quê hương.”(NQ36)

Người Việt Tị Nạn CS bất đắc dĩ phải xa ĺa Tổ Quốc. Tổ Quốc nói đây là Tổ Quốc VN, chớ không phải cái thứ “tổ quốc xă hội chủ nghĩa” của VC! Tinh thần yêu nước của người Việt Tị Nạn CS nằm trong ư niệm “yêu nước phải thương dân”(1). Từ mấy ngàn năm về trước, dưới chế độ quân chủ chuyên chế với quan niệm “Vua thay mệnh Trời để cai trị muôn dân” mà Mạnh Tử c̣n đưa ra thuyết “Dân vi quư, xả tắc thứ chi, quân vi khinh” và theo nghĩa Xuân Thu “Người lănh đạo phải luôn luôn làm thuận ḷng Trời, hợp ư Dân”. Trách nhiệm của nhà cầm quyền là bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ, tạo an lạc và phúc lợi cho dân (2). Các việc làm như “xét cấp hộ khẩu, phân biệt đối xử, quản chế, xét lư lịch, chụp mũ, bịt miệng” chắc chắn không tạo an lạc và phúc lợi cho bất cứ ai. Tự xưng là dân chủ nhứt thế giới, nhưng VC xem dân như cỏ rác và không bao giờ theo ư dân. Thế mà họ luôn luôn đưa chiêu bài “nhân dân” để bịp người dân và dùng chánh sách “Đô la vi quư, Đảng vi chủ, Dân vi khinh” để thống trị đất nước. Cần lập lại: Yêu nước phải thương dân và không làm mầt một tấc đất của đất nước”(3) chớ không phải yêu nước là yêu ngục tù “xă hội chủ nghĩa”!
Người Việt Tị Nạn CS luôn luôn giữ ǵn truyền thống văn hóa và luôn luôn hướng về cội nguồn. Văn hóa và cội nguốn nói đây là văn hóa và cội nguồn với t́nh nghĩa giữa người và người đă có từ ngàn xưa chớ không phải cái thứ văn hóa ngoại lai vô thần, đầy hận thù, gian dối và lừa bịp! Nhà văn CS Tào Mạt đă từng nghiêm khắc “dạy đảng” về hai chữ “cội nguồn” (4).
Người Việt Tị Nạn CS luôn luôn gắn bó với gia đ́nh và quê hương VN c̣n VC chủ trương “vô gia đ́nh, vô tổ quốc, vô tôn giáo” và chỉ gắn bó với Tàu cộng để củng cố quyền lực. Họ càng gắn bó với Tàu cộng th́ đất nước càng bị thu hẹp và sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới! Bắc Thuộc lần Thứ Tư đă manh nha và chắc chắn sẽ thành sự thật nếu tên gác cổng Nhà VN cứ tiếp tục rước bọn Tàu cộng vào chiếm Nhà để mong được trở thành đầy tớ của tên chủ mới ! Trên thực tế (de facto), VN đă là một thuộc địa của Tàu cộng. Xin chứng minh:
1) Nguyễn Minh Triết, trước khi đi HK, phải qua chầu hầu Hồ Cẩm Đào để nhận lịnh,
2) Nguyễn Tấn Dũng, trước Đại hội 10 của “đảng”, phải qua xin Hồ Cẩm Đào ra lịnh cho tà quyền VC chỉ thị quốc hội bù nh́n của họ bầu hắn ta làm thủ tướng!
3) Dân Tàu đi trên đất nước VN như đi trên đất Tàu: không cần thông hành, không cần chiếu khán, không phải tŕnh báo với bất cứ ai, muốn đi đâu th́ đi, muốn ở bao lâu th́ ở, ở vĩnh viễn cũng không có ǵ trở ngại, di dân lập ấp không bị ngăn cấm,
4) Ngày 02/12/07, khi Tàu cộng thành lập huyện Tam Sa để thống trị hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, học sinh, sinh viên và đồng bào biểu t́nh phản đối th́, qua tên phát ngôn viên Tần Cương, Tàu cộng gián tiếp chỉ thị tà quyền VC phải giải quyết, nếu không sẽ có ảnh hưởng tai hại đến “t́nh hữu nghị” giữa hai nước. Lập
tức công an được lịnh ra tay ngăn cấm, giải tán và đàn áp các cuộc biểu t́nh tại Sài G̣n và Hà Nội. Đặc biệt bộ sậu “tổng bí thư, chủ tịch nuớc, thủ tướng, chủ tịch quốc hội, tổng trưởng ngoại giao ” VC không dám hé mối phản đối!
5) Ngày 29/04/2008, để bảo vệ đuốc Thế Vận Hội, công an Tàu cộng với cờ của chúng tràn ngập thành phố Sài g̣n và đẩy cờ VC vào xó kẹt nào đó. Sư việc này lại đưọc chính công an VC bảo vệ. Trong khi đó, một lũ công an Tàu cộng khác, trong sắc phục công an VC, hợp sức với bọn này, săn đuổi, bắt bớ học sinh, sinh viên và đồng bào biểu t́nh v́ ḷng yêu nước về đồn công an để hành hạ tinh thần lẫn thể xác!

Qua năm sự kiện nêu trên, chúng ta thấy mối tương quan giữa Tàu cộng và Việt cộng là mối tương quan giữa chánh quốc và thuộc địa, tương tự mối tương quan giữa “Đại Pháp” và Nam Kỳ thuở xa xưa, nhưng tệ hại và tàn độc hơn nhiều.
Cao trào chống Thế Vận hội Bắc Kinh đang dâng lên như sóng thần Tsunami. Nếu VC thật sự muốn bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ và tỏ ra không phải là chư hầu của Tàu cộng th́, nhơn dịp này, hăy mạnh dạn tẩy chay Thế vận hội Bắc kinh vào tháng 8 năm 2008: không gởi lực sĩ tham dự, thuyết phục dân không du lịch Tàu cộng, đưa vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa ra truớc Liên Hiệp Quốc, ngưng nhập cảng thực phẩm Tàu cộng để làm thuốc độc giết dân. Làm xong những điều nầy, CSVN có thể quay về với dân tộc để vổ ngực và hét vào mặt Tàu cộng: “Bọn Bắc phương! Chúng bay hăy liệu hồn! CSVN sẽ tự giải thể để trở thành danh tướng Lư Thường Kiệt, B́nh Định Vương Lê Lợi, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Quang Trung Đại Đế của thế kỷ XXI chứ không c̣n là Lê Chiêu Thống và Trần Ích Tắc như từ trước đến nay!” Ôi! Đó chỉ là một giấc mơ, một hoang tưởng của người viết. Hồ Chí Minh có vượt thoát khỏi lồng kiếng Ba đ́nh cũng chẳng dám làm huống chi bọn hậu duệ của lăo, những kẻ khôn nhà dại chợ, chỉ dám bách hại những người sống dưới quyền sanh sát của họ mà thôi!!!

1c) “Đồng bào bà con hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại đoàn kết dân tộc của đảng và nhà nước.”(NQ36)
“Chính sách đại đoàn kết dân tộc”, được NQ36 nhắc đi nhắc lại đến 5 lần, chỉ là một chiêu bài mà VC dùng để bịp những người không CS nhưng lại dễ tin CS. Chiêu bài này đă từng được Hồ Chí Minh xử dụng vào năm 1946 khi thành lập “Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia” và trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nó đă được thực thi thế nào mà Cố vấn Tối cao Vĩnh Thụy, Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Hải Thần, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam phải t́m đường lưu vong? Nhiều nhà yêu nước chơn chánh, có uy tín, cũng đă từng là nạn nhơn của “chính sách đại đoàn kết dân tộc”: Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Dương văn Giáo, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, bác sĩ Hồ Vĩnh Kư và phu nhơn là bác sĩ Nguyễn Thị Sương v..v… đă bị thảm sát một cách dă man chỉ v́ yêu nước, thương dân, chống Pháp nhưng không là đảng viên CS!
Ngay cả Đức Giáo Chủ Phật Giáo Ḥa Hảo, một vi Giáo chủ yêu nước, thương dân, chống Pháp cũng đă bị VC ám hại tại Đốc Vàng Hạ! (5).
Nh́n kỷ, chúng ta thấy trọng tâm của chủ nghĩa CS là đấu tranh giai cấp, là vô sản chuyên chính. Đă là vô sản chuyên chính và đấu tranh giai cấp lại được tô đậm bởi điều 4 hiến-pháp năm 1992 th́ làm thế nào có thể dung nhận đối lập! (6). Không dung nhận đối lập th́ làm thế nào chấp nhận đa nguyên, đa đảng! Không chấp nhận đa nguyên đa đảng và chủ trương diệt đối lập th́ làm thế nào “đại đoàn kết dân tộc”! Như vậy, “đại đoàn kết dân tộc” theo kiểu CS khác với “đại đoàn kết dân tộc” của người quốc gia. Người quốc gia quan niệm “đại đoàn kết dân tộc” là “cộng đồng đồng tiến”; không có giai cấp nào “chuyên chính”. Nói khác đi, các tầng lớp trong xă hội giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến trong ư niệm “kẻ có cho người không có” chớ không phải “kẻ không có giết người có để có”! “Chính sách đại đoàn kết dân tộc của đảng và nhà nước” c̣n là chánh sách củng cố và phát huy t́nh đoàn kết giữa một số phần tử trong “đảng” để trấn lột trên 80 triệu người dân đau khổ và cầm tù, quản chế các công dân dám đứng lên đ̣i hỏi tự do, dân chủ, nhơn quyền cho đất nước như quư vị lănh đạo tinh thần các tôn giáo và quư vị luật sư Lê Thị Công Nhân, Bùi Kim Thành, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân, Lê Chí Quang v..v…
Công cuộc đổi mới do VC thực hiện chỉ đem lại kết quả là sự cách biệt giữa người nghèo và kẻ giàu ngày càng sâu đậm: người bỏ trên 7 triệu MK để mua phi cơ, kẻ bỏ trên 1 triệu để mua xe hơi, các “quan chức” VC uống “rượu ngoại” giá nhiều ngàn MK một chai, thua cá đá bóng trên cả triệu MK (PMU18) trong khi đó dân nghèo phải bán máu để mua sửa, mua thuốc cho con và bán con như bán con vật hay đồ vật để sống qua ngày!!! Càng đổi mới, số vụ tham nhũng càng tăng, bọn triệu phú trong “đảng” càng trở nên đông đảo, … “Đổi mới” theo kiểu đó, ai là người yêu nước, thương dân lại chẳng đau ḷng xót dạ! Ai là người có liêm sỉ và lương tâm lại chịu “hoan nghênh”!

1d) “Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về t́nh h́nh đất nước”(NQ36).
Nếu quả thật “công cuộc đổi mới” đă và đang đem lại “những thành tựu” th́ “đường ta, ta cứ đi”, cứ tiếp tục “đối mớí” và tiếp tục thu hoạch “những thành tựu”, việc ǵ phải ban hành nghị quyết bịp bợm để vuốt ve “bọn ma cô, đỉ điếm”- nhóm chữ VC dùng để thóa mạ người Việt Tị Nạn CS.
“Những thành tựu của công cuộc đổi mới” không được ghi trong NQ36 bởi lẻ có đâu mà ghi! Người ta chỉ thấy hậu quả của nó! Đó là:
- Thầy dùng điểm thi để trao đổi t́nh dục với học sinh,
- Dân phải bán máu, bán con để sống,
- Thiếu nhi 8, 9 tuổi bị đưa sang Cam Bốt làm nô lệ t́nh dục,
- Thiếu nữ bị xuất cảng để làm điếm quốc tế và “dâu tập thể” cho ngoại nhân,
- Công an có quyền bịt miệng người dân,
- Toàn dân trở thành những “người tù dự khuyết”, sẵn sàng khăn gói rời nhà tù lớn để vào nhà tù nhỏ: “Bao năm chinh chiến ta sum họp. Giờ đă thanh b́nh lại biệt ly”.
- Bọn đầu tư ngoại quốc tự do sỉ nhục, bóc lột công nhân VN ngay trên đất Việt (7),
- Bọn cường hào ác bá tại các địa phương tha hồ cướp nhà, cướp đất của dân,
- Một phần lănh thổ với nhiều điểm chiến lược quan trọng và lănh hải đầy tài nguyên thiên nhiên bị dâng cho Tàu cộng v..v…
1e) “Một số ít người đi ngược lại lợi ích của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại và VN.”(NQ36)

VC có cái tật đến chết cũng không chừa. Đó là tự đồng hóa ḿnh với đất nước và dân tộc. Không phải “một số ít người” mà đại khối đồng bào hải ngoại đều chống VC chớ không hề đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Đại khối đó không “ra sức chống phá đất nước” mà nỗ lực t́m phương cách tiêu diệt chế độ đang tàn phá đất nước. Đại khối đó không “phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại và VN” mà vạch trần cho các đại diện dân cử của các nước sở tại thấy chánh sách tàn bạo, dă man của VC - chà đạp nhân quyền, tiêu diệt dân chủ, tước đoạt tự do của dân - để họ hợp tác với dân tộc VN trong công cuộc khôi phục tự do, dân chủ và nhơn quyền cho đất Việt.

1f) “Nhu cầu giao lưu văn hóa giữa cộng đồng và đất nước, là rất lớn và trở nên bức thiết song chưa được đáp ứng.”(NQ36)
Đặt vấn đề “giao lưu văn hóa”, VC đă mặc nhiên công nhận có hai nền văn hóa: văn hóa quốc nội mà cốt lơi là chủ nghĩa Mác Lê và văn hóa hải ngoại mà nền tảng là chủ nghĩa Dân Tộc. Vấn đề giao lưu văn hóa đă được VC nói tới từ lâu và trên thực tế đă được thực thi nhưng chỉ có một chiều: quốc nội tuôn ra hải ngoại. Như vậy, khi cho rằng nhu cầu giao lưu văn hóa giữa quốc nội và hải ngoại “trở nên bức thiết”, VC đă để lộ mưu đồ trong việc nhuộm đỏ văn hóa hải ngoại bằng văn hóa Marxist như họ đă thực thi trong nước. Người xưa đă dạy: Văn Hóa c̣n, Dân Tộc c̣n. Như vậy, văn hóa Marxist c̣n, chế độ CS c̣n. Chế độ CS c̣n, Dân Tộc VN c̣n điêu đứng và đất nước có cơ trở thành một quận, huyện của “đại Hán”.
1g) “Nhu cầu giữ ǵn và phát triển tiếng Việt trong cộng đồng là rất lớn và bức thiết song chưa được đáp ứng.”(NQ36).
Bảo rằng “nhu cầu giữ ǵn và bảo vệ tiếng Việt ... chưa được đáp ứng” là xuyên tạc sự thật để lấy lư cớ “Tích cực đầu tư cho chương tŕnh dạy và học tiếng Việt cho người VN ở nước ngoài nhất là cho thế hệ trẻ”(NQ36), để dễ bề đầu độc trẻ thơ với những kiến thức đă bị phân hủy trong hố rác lịch sử của nhơn loại từ nhiều thập niên qua!

1h) “Các chính sách đă ban hành chưa đồng bộ và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, chưa khuyến khích mạnh mẽ người VN ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước. Sự đóng góp của bà con vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là về trí thức, chưa tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người VN ở nước ngoài.”(NQ36).
Với trên 5 tỷ mỹ kim do người Việt Tị Nạn CS gởi và mang về hàng năm, VC chưa Cho là đủ và họ t́m cách trấn lột đến nơi đến chốn cho “tương xứng với tiềm năng của cộng đồng người VN ở nước ngoài!" Mà có thật họ dùng 5 tỷ mỹ kim nói trên để “phát triển và xây dựng đất nước” hay xử dụng tiền mồ hôi, nước mắt của đồng bào để vinh thân ph́ gia đồng thời để cứu “đảng” và củng cố chế độ bằng cách tăng lương cho bộ đội để đám này quên nhiệm vụ thiêng liêng của người lính mà chỉ c̣n nhớ “trung với đảng”! Ngoài ra, VC c̣n dùng tiền của đồng bào để tăng lương cho công an và huấn luyện bọn này để chúng thẳng tay trong công tác “bịt miệng” người dân, đánh đập dân oan khiếu kiện, săn đuổi học sinh, sinh viên biểu t́nh phản đối Tàu cộng cướp đoạt hai quần đảo của Tổ Quốc VN, bảo vệ bọn Tàu biểu t́nh với biểu ngữ “Hoàng Sa và Trường Sa là hai giọt máu của Trung Quốc”!

2. Chủ trương và phương hướng công tác đối với người VN ở nước ngoài trong thời gian tới.

2a) “Người VN ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc VN, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nước ta và các nước.”(NQ36).
Sau khi liều ḿnh vượt thoát ngục tù xă-hội chủ-nghĩa, ngườ́ Việt Tị Nạn CS đă đem hết khả năng và kiến thức thụ đắc dưới chánh thể VNCH để tạo được sự nghiệp vẻ vang nơi xứ người. Chợt nhận thấy điều đó, VC bèn trở giọng tâng bốc những ngựi mà họ đă từng thóa mạ trong nhiều năm tháng bằng nhóm chữ “ ma cô, đĩ điếm”. Bây giờ họ không ngượng mồm gọi những người mà họ đă từng sỉ nhục là “ bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc VN”, là “khúc ruột ngoài ngàn dậm” mà họ quyết tâm nuốt cho kỳ hết những ǵ chứa đựng trong đó!

2b) “Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người VN ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế.”(NQ36).
Sống ở quốc gia nào, đồng bào Tị Nạn CS tuân hành luật pháp của quốc gia đó và quyền lợi của đồng bào được chính luật pháp của quốc gia đó bảo vệ. Luật pháp của các quốc gia dân chủ Tây phương không phải là luật rừng, muốn bỏ tù, muốn quản chế ai th́ cứ chụp cho người ấy cái mũ “gián điệp”. Như vậy, đồng bào hải ngoại không cần “nhà nước ta thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lư để đồng bào ổn định”. Đồng bào đă ổn định cuộc sống từ lâu, chính NQ36 cũng đă xác nhận trong phần I. Đặc biệt, trong điểm này, NQ36 đă ra chỉ thị cho bọn nằm vùng “chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố t́nh đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc”. “Các biểu hiện” này không ǵ khác hơn là cao trào vận động tự do, dân chủ và nhơn quyền cho VN, tố giác trước cộng đồng nhơn loại hành vi buôn dân bán nước của VC. Thế nào là “chủ động đấu tranh”? Áp dụng “đảng sách” khủng bố chăng? “Đảng sách” này đă được VC áp dụng một cách khá điêu luyện từ ngày 03/02/1930!

3. Nhiệm vụ chủ yếu.

NQ36 đề ra 9 nhiệm vụ chủ yếu mà “đảng, đoàn, mặt trận tổ quốc, chính phủ” phải chu toàn.

3a) ”Tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống nước sở tại, đồng thời duy tŕ quan hệ gắn bó với quê hương đất nước.” (NQ36).
Hầu hết người Việt hải ngoại là thường trú nhân hoặc đă có quốc tịch nơi họ định cư. Họ đă ổn định cuộc sống, làm ăn phát đạt, hội nhập vào đời sống xă hội tại các nước sở quan từ lâu, rất lâu trước khi cái nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa VN được Hoa Kỳ cho phép đặt “Ṭa Đại Sứ” tại Hoa Thịnh Đốn. Sở dĩ được như vậy là v́ các quốc gia nơi đồng bào định cư có tinh thần thượng tôn pháp luật chớ không dùng luật rừng để khống chế dân chúng. Như vậy, đồng bào không cần bất cứ ai “tạo điều kiện thuận lợi” và “hỗ trợ”. VC hăy chấm dứt việc gởi các tên đại diện kém tác phong ra ngoại quốc để làm nhục quốc thể (trộm ṣ, sờ mông gái xẩm). C̣n việc “gắn bó với quê hương đất nước”, nó bắt nguồn từ t́nh tự dân tộc, từ ḷng yêu nước chân thật, không cần ai “tạo điều kiện và hỗ trợ”. Có ai “tạo điều kiện” và “hỗ trợ” đâu mà đồng bào hải ngoại đă nhiều phen bày tỏ sự “gắn bó với quê hương đất nước” bằng cách lên tiếng nguyền rủa và kết án bọn dâng đất, dâng đảo, dâng biển cho Tàu cộng cũng như hết ḷng ủng hộ “dân oan khiếu kiện” và các nhà dân chủ trong nước. Về điểm “hổ trợ đồng bào hội nhập vào đời sồng nước sở tại…”, NQ36 ẩn dụ việc VC tung tiền vận động cho bọn tay sai ứng cử nắm các trách vụ dân cử để có thể chui vào “ḍng chính” của các nước sở tại.
3b) “Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước.” (NQ36).
Với chánh sách “hồng hơn chuyên” được áp dụng một cách khá tinh xăo th́ đừng mong “thu hút nhân tài” và “phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào”. Người trí thức không bao giờ quên trường hợp của triết gia Trần Đức Thảo, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Giáo sư Nguyễn Đ́nh Hoan, thương gia Nguyễn Trung Trực v..v… cũng như khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ”. Sau khi “đổi mới”, VC tuyên bố là sẽ trọng dụng nhơn tài. Trên thực tế, họ chỉ trọng dụng những phần tử chấp nhận làm thừa sai cho họ và thẳng tay đàn áp những thành phần chỉ trích ôn ḥa các chánh sách có hại cho dân, cho nước. Đó là trường hợp của các luật sư Lê Thị Công Nhân, Lê chí Quang, Lê Quốc Quân, Nguyễn Văn Đài, Bùi Kim Thành nhà báo Nguyễn Vũ B́nh, nhà văn và nhà báo Trần Khải Thanh Thủy và nhiều vị khác.
3c) “Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người VN ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nước.”(NQ36)
Tệ nạn tham nhũng c̣n phủ trùm đất nước th́ đừng ḥng thu hút đầu tư. Những trường hợp “nhà nước” t́m cách lấy sạch tài sản của kiều bào tin lời VC mang tiền về đầu tư không phải là ít: Nguyễn Trung Trực ở Úc Châu, Trương vĩnh B́nh ở Ḥa Lan, Nguyễn Đ́nh Hoan ở Hoa Kỳ... Ngay cả Trần Trường có “đại công” trong việc treo ảnh Hồ, cờ cộng để “lấy điểm” với VC, mang tí tiền c̣m về VN “đầu tư” cũng bị trấn lột đến nơi đến chốn! C̣n nhiều đồng bào hải ngoại khác mang tiền về VN kinh doanh bị VC đem luật “xă nghĩa” áp dụng, suưt bỏ mạng, phải trốn chạy với hai bàn tay trắng, nhưng v́ tự ái không thuật lại trường hợp bỏ của chạy lấy người của ḿnh.

3d) “Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức tập họp với mục đích đoàn kết người VN ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng về tổ quốc của bà con, nhất là của thế hệ trẻ...”(NQ36)
Từ năm 1976, người Việt Tị Nạn CS đă bắt đầu thành lập các cộng đồng để giúp đỡ lẫn nhau và hầu hết đă trở thành những cộng đồng gương mẫu khíến cộng đồng nguời địa phương và các cộng đồng thiểu số khác phải ngưởng phục. Khi cần, đồng bào đă đoàn kết chặt chẽ với nhau đâu cần VC “đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức tập họp”. Nếu đồng bào không đoàn kết th́ làm sao đạt được các thành quả như:
- Đập tan âm mưu của VC trong vụ Trần Trường,
- Thành công trong chiến dịch CỜ VÀNG,
- Xây dựng được kỳ đài VNCH ở Arizona, Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở Nam California, ở Houston (Texas), ở Utah và tượng đài Mẹ bồng con trốn chạy chế độ CS bên Canada,
- Cấm cửa phái đoàn VC không được bén mảng tới hai thành phố Garden Grove và Westminster ở Nam California,
- Vận động được Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ thông qua dự luật nhân quyền cho VN,
- Làm cho các chuyến công du của Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng nếm mùi ô nhục!
Cần ghi nhận rằng thế hệ trẻ đă đóng góp rất nhiều vào sự thành công của các cuộc vận động nói trên. Với nhiệm vụ “đa dạng hóa các phương thức vận động, các h́nh thức tập họp”, VC muốn biến các tổ chức đương hữu của người Việt hải ngoại thành những tổ chức quốc doanh để dễ bề thao túng và yêu cầu ủng hộ định kỳ hoặc bất thường để giúp “nhà nước ta phát triển đất nước”. Có điều chắc chắn VC sẽ tung tiền cho bọn tay sai nằm vùng trong các cộng đồng lập thêm các hội đoàn mới đối nghịch với các hội đoàn đương hữu, nghĩa là xé nát các cộng đồng ra nhiều mảnh nhỏ chống đối lẫn nhau! Ngoài ra, họ c̣n bỏ tiền để bọn tay sai thuê muớn luật sư kiện cáo làm xáo trộn cộng đồng, khiến cộng đồng chú ư đến các vụ kiện vô duyên cớ đó mà lảng quên những ǵ VC đang gây điêu đứng cho dân tộc và đất nước!
Cũng trong nhiệm vụ thứ tư này, VC “chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người VN ở nước ngoài, kể cả với những người c̣n có định kiến, mặc cảm với nhà nước và chế độ ta.”(NQ36)
Tiếp xúc để ḍ la gia cảnh của chúng ta, để yêu cầu chúng ta cho con em tham dự trại hè, các cuộc chơi ngoài trời, các lớp học Việt ngữ do họ tổ chức, kêu gọi chúng ta đem tiền về VN đầu tư, nhứt là để yêu cầu chúng ta đóng góp định kỳ và bất thường để giúp “nhà nước ta phát triển đất nước”. Nhưng trên thực tế họ dùng tiền đó để đánh phá chúng ta với ư đồ làm tan rả Cộng Đồng Nguời Việt Tị Nạn CS trong kế hoạch “củi đậu nấu đậu” của cơ quan t́nh báo hải ngoại.
Người Việt Tị Nạn CS không có bất cứ một thứ mặc cảm nào với VC. Viết như NQ36 là trịch thượng, lên mặt kẻ cả. “Người Việt ở nước ngoài” không có bất cứ một thứ mặc cảm nào đối với bất cứ ai mà chỉ có một nhận định, một quyết tâm và những niềm hănh diện. Nhận định: VC đàn áp tôn giáo, chà đạp nhơn quyền, tiêu diệt dân chủ, dâng đất, dâng đảo, dâng biển cho Tàu cộng, cố t́nh tạo một xă hội băng hoại để dễ bề thống trị, đang d́m đất nước xuống vũng lầy lạc hậu và sẽ dâng VN cho Tàu cộng để tái tạo một thứ “Cửu Chân, Nhật Nam” tân thời. Quyết tâm: Kết hợp với đồng bào quốc nội nhằm tạo điều kiện tiên quyết để VN vươn lên bằng cách giải thể chế độ CS.
Một niềm hănh diện: Dân quân miền Nam đă chiến đấu một cách anh dũng - trước khi hai tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà nẳng ngày 08/03/65 và sau khi quân đội Hoa Kỳ triệt thoái khỏi VN - chống lại cả tập đoàn CS quốc tế gồm Liên Bang Sô Viết, Tàu Cộng, Bắc Hàn, Cuba, Khối CS Đông Âu và CSBV. Người Việt Tị Nạn CS c̣n hănh diện về hai sự kiện lịch sử: Đập tan trận Tổng công kích Tết Mậu Thân của CSBV và trận hải chiến Hoàng Sa vào hồi 10:20 sáng ngày 19-1-74 giữa bốn chiến hạm Hải quân VNCH và hằng chục chiến hạm của Hải quân Tàu Cộng, trong đó có hai chiến hạm bị Hải quân VNCH bắn ch́m và tiêu diệt toàn bộ thủy thủ đoàn trên hai chiến hạm, kể cả các tên hạm trưởng và hạm phó. Hải quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà và Hải quân Đại úy Nguyễn Tthành Trí, hạm trưởng và hạm phó, cùng 56 vị Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Thủy thủ đă anh dũng hy sinh cùng chiến hạm HQ 10.

3e) “Tích cực đầu tư cho chương tŕnh dạy và học tiếng Việt cho người VN ở nước ngoài nhất là cho thế hệ trẻ.”(NQ36)
Vấn đề này người viết đă phân tích ở phần trên. Ở đây, xin nói rơ ư đồ của VC. Tâm thức của trẻ thơ như tờ giấy trắng, trên đó muốn vẽ ǵ th́ vẽ. Mở các lớp dạy tiếng Việt cho trẻ thơ với sách giáo khoa do VC biên soạn, với các giáo viên do họ cử đến, VC chỉ nhằm nhồi sọ con cháu chúng ta với những giáo điều và tư tưởng chống lại quốc gia dân tộc, với những kiến thức thuộc loại “trăng Trung quốc tṛn và sáng hơn trăng Mỷ quốc”, “đồng hồ Liên sô đẹp và chạy đúng giờ hơn đồng hồ Thụy sĩ ” v..v… Sự nhồi sọ này sẽ biến mỗi gia đ́nh người Việt hải ngoạị thành một địa ngục trần gian, trong đó con chống cha mẹ, cháu chống ông bà. Hiện nay, nền y tế và giáo dục trong nước mất phẩm chất đến mức báo động: bịnh nhơn nghèo không tiền mua thuốc, mua sérum, nhà thương không có chỗ nằm, bịnh nhơn phải nằm ngoài hàng ba các bệnh viện công lập, học sinh bỏ học hàng hàng, lớp lớp v́ không tiền đóng học phí, giáo viên với đồng lương không đủ sống phải làm thêm những công việc như giữ xe, bán bánh kẹo th́ làm thế nào chú tâm day học đuợc, hằng triệu người dân c̣n mù chữ! Sự kiện “Thằng dốt ngồi trên đầu thằng giỏi để viết sách giáo khoa bắt thằng giỏi truyền đạt lại sự dốt nát tối tăm của ḿnh cho bao thế hệ học sinh” đă được nhà văn Trần Khải Thanh Thủy ghi nhận trong bài viết “Buồn trông…Giáo dục Việt Nam”. Đáng lư VC phải đầu từ nhiều trong lảnh vực y tề và giáo dục thay v́ “đầu tư cho chuơng tŕnh dạy và học tiếng Việt cho người VN ở nước ngoài”, điều mà nguời Việt Tị Nạn CS đă làm trong 33 năm qua. NQ36 c̣n đề ra nhiệm vụ…………….

3f) “Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người VN ở nước ngoài.”(NQ36)
Các trại hè cũng như trường học các cấp là những nơi dùng để tuyên truyền. VC không hề giấu giếm điều này. Thật vậy, Điều 51 “Đạo luật về Giáo dục” tháng 12 năm 1997 quy định: “Đào tạo đại học nhằm đáp ứng các nhu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (8). Chắc chắn “tổ quốc” trong Điều này không phải là Tổ Quốc Việt Nam v́ lúc nào họ cũng quan niệm “yêu nước là yêu xă hội chủ nghĩa”. Vậy, “tổ quốc” của họ là “tổ quốc xă hội chủ nghĩa”, thượng từng kiến trúc của chủ thuyết Mác Lê. Chủ thuyết này đă sát hại hàng triệu người tại những nơi nó ngự trị: Liên bang Sô viết, 20 triệu; Trung hoa, 65 triệu; VN, 1 triệu; Bắc hàn, 2 triệu; Cam bốt, 2 triệu; Đông âu, 1 triệu; A phú hản, 1 triệu 700 ngàn (9) – không kể những người chết trận và bị pháo kích.
3g) “Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt ở nước ngoài hiểu đúng t́nh h́nh đất nước và chính sách của đảng và nhà nước. Hỗ trợ việc ra báo, mở đài phát thanh.”(NQ36)
Không cần ai “giúp”, “người Việt ở nước ngoài” cũng thừa biết “chính sách của đảng và nhà nước”: phản dân, hại nước! Trong nuớc, VC không cho dân chúng ra báo, chỉ có báo “nhà nước” và báo “đảng”. Như vậy, “đổi mới toàn diện công tác thông tin tuyên truyền” th́ chỉ có việc phát hành ấn bản các báo “Thanh Niên”, “Sài G̣n Giải Phóng”, “Nhân Dân”, “Quân Đội Nhân Dân” v..v… tại hải ngoại và bỏ tiền cho bọn tay sai ra báo, lập đài phát thanh. Các báo, các đài của VC vừa “thông tin” vừa “tuyên truyền”. Thông tin th́ bưng bít, tuyên truyền th́ lừa bịp quần chúng và bôi nhọ đối phương. Về “t́nh h́nh đất nước và chính sách của đảng và nhà nước”, không cần nghe đài, không cần đọc báo VC, chúng ta cũng thừa biết đài và báo ấy luôn luôn bôi nhọ chánh thể VNCH và tô son điểm phấn chế độ CS bằng mọi thủ đoạn hạ cấp.

3h) “Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người VN ở nước ngoài, đưa vào nền nếp việc khen thưởng các tổ chức và cá nhân người VN ở nước ngoài có thành tích trong vận động xây dựng cộng đồng.”(NQ36)
Đây là vấn đề nội bộ của VC và tay sai ở hải ngoại. Hồi đầu năm 2007, VC đă “khen thưởng” 17 người Việt hải ngoại được xem là khoa bảng và chuyên viên. Những người bị gây mê được VC trọng vọng trong nhứt thời như những trái chanh quư, nhưng VC chỉ xem họ như những công dân hạng hai, hạng ba. Vắt nước chanh xong, quăng vỏ vào thùng rác! Các “đại công thần” của chế độ như Dương Bạch Mai, Đinh Bá Thi, các đại tướng VC Hoàng văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần B́nh v..v…đă bị họ sát hại một cách không xót thương. Như vậy, số phận của những công dân hạng hai, hạng ba sẽ ra sao nếu làm trái ư họ?
Hăy nh́n kỷ trường hợp của triết gia Trần Đức Thảo, LS Nguyễn Mạnh Tường và BS Nguyễn Khắc Viện! Những vị này cũng thuộc thành phần công dân hạng hai hay hạng ba v́ không có lư lịch ba đời bần cố nông! Nói như thế cũng tội cho giới nầy v́ họ cũng nghèo đói, khổ sở, bịnh tật và bị giam hảm trong ngục tù “xă hội chủ nghĩa”! Chỉ có mấy trăm triệu phú mỹ kim trong chớp bu của “đảng” được hưởng kết quả của “công cuộc đổi mới” (10). Có bao giờ những đa triệu phú này nh́n lại dám dân đen nghèo khổ để ra tay giúp đở v́ họ có “nhă ư nhường” công việc đó cho đồng bào Tị Nạn CS để họ có nhiều th́ giờ đi du hí Thái Lan, Tân Gia Ba, Hồng Kông, Thượng Hải, Anh, Pháp v..v…ăn chơi, cờ bạc, đánh cá, trác táng, triều cống Tàu cộng để củng cố quyền lực. Đúng là “Chỉ có loài thú mới quay lưng trước nỗi thồng khổ của đồng loại để chăm sóc bộ lông của ḿnh”. Nực cười thay, người nói câu này đă xua đuổi, bỏ rơi người tớ gái và đứa con trai mà hắn đă có với người tớ gái! Ngựi đó chính là tay tổ CS: Karl Marx! “Hậu duệ” của hắn là Hồ Chí Ḿnh c̣n tệ hại hơn nhiều; lăo này đă nói: “Vua Hùng có công dựng nước, bác cháu ta phải cố giữ nước”. “Giữ nước” đâu không thấy, chỉ thấy dâng và bán nước cho Tàu cộng! Ngoài ra, lăo c̣n mang một tội ác “trời không dung đất không tha”, Nguyễn Tất Trung “thù hắn đến muôn đờ́” v́ lăo đă cho thủ tiêu người đă có con với hắn bằng một “tai nạn” xe hơi! Người thiếu nữ bât hạnh đó là Nông Thị Xuân mẹ của Nguyễn Tất Trung (11).
Một lần nữa, xin nhắc lại: “người Việt ở nước ngoài”, từ hơn 33 năm qua, đă được luật pháp văn minh “bảo hộ và bảo vệ quyền lợi” một cách rất hữu hiệu. Không ai cần VC “đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài”. Họ nên “đẩy mạnh công tác” cứu vớt các thiếu nữ nghèo khó vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long bị “đảng và nhà nước ta” đồng lơa trong việc gả bán làm “vợ tập thể” cho gia đ́nh các tên khuyết tật ở Đài Loan, Đại Hàn. Ngoài ra, VC cũng nên “đẩy mạnh công tác bảo vệ” người VN ở Nga đang bị người địa phương kỳ thị, chém giết, hành hung, đả thương, đốt chợ (14). Một công tác khác mà VC cần “đẩy mạnh” là giải thoát các trẻ em chín, mười tuổi bị “đảng và nhà nước ta” a ṭng với bọn tú bà xuất cảng sang Miên để làm gái điếm theo lối khẩu dâm!

4. Tổ chức thực hiện.

NQ36 phân công phân nhiệm cho các cơ cấu của “đảng” từ Ban bí thư xuống đến tỉnh ủy, thành ủy của họ nhằm thi hành nghị quyết. Để cụ thể hóa các chỉ thị của Bộ chính trị ghi trong NQ36, Thủ tướng VC đă ban hành Quyết định số 110/2004/QD/TU ngày 26/3/2004 ấn định “chương tŕnh hành động” với 10 công tác phải thực hiện. Các công tác này thực ra chỉ rút từ “9 nhiệm vụ chủ yếu” mà người viết đă phân tích. Chúng chứa toàn những chiêu bài có tác dụng ru ngủ, chiêu dụ đồng bào và phá nát cộng đồng người Việt hải ngoại. NQ36 hứa “Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan đến người VN ở nước ngoài”(NQ36). Hiến pháp năm 1992 của VC công nhận quyền tự do tín ngưỡng. Thế mà vào ngày 18/6/2004, Ủy Ban Thường Vụ của quốc hội VC đă thông qua pháp lệnh về tự do tôn giáo nhằm hạn chế tới mức tối đa quyền tự do này. Pháp lệnh nói đây có hệ cấp pháp lư thấp hơn một đạo luật v́ do Ủy Ban Thường Vụ thông qua chớ không do quốc hội thảo luận và biểu quyết. Thế mà nó đi ngược lại văn kiện tối cao trong hệ cấp pháp lư là hiến pháp. Vậy “các văn bản pháp quy có liên quan đến người VN ở nước ngoài”, nhằm chiêu dụ, ve văn “người VN ở nước ngoài”, sẽ có giá trị như thế nào? Chắc chắn các “văn bản” ấy sẽ bị ném vào sọt rác khi nào VC muốn.

B. Cảnh Giác của Cộng Đồng Người Tị Nạn CS

Xin nhắc lại bài “Con Quạ với Con Chồn” (Le Corbeau et le Renard) của Jean de La Fontaine, một nhà ngụ ngôn lừng danh của nước Pháp vào thế kỷ thứ XVII:
Thèm miếng phó mát của con quạ, con chồn trổ tài nịnh hót, dùng lời ngon tiếng ngọt, gọi quạ bằng “Cụ”, để con quạ cất tiếng kêu. Quả thật, con quạ mắc kế con chồn, há mỏ kêu lớn và miếng phó mát được chuyển từ mỏ con quạ sang miệng con chồn! Khi ấy con chồn trở giọng “mày, tao” với con quạ! (Theo bản dịch của Cụ Nguyễn Văn Vĩnh). VC muôn đời vẫn là “cáo” trong bài ngụ ngôn nói trên: thèm muốn nhũng ǵ “bọn ma cô đĩ điếm, bọn bán nước...” gầy dựng được trong hơn 33 năm qua, họ bèn đổi giọng, gọi “bọn ma cô đĩ điếm, bọn bán nước...” là “ khúc ruột ngoài ngàn dặm, bộ phận máu thịt của dân tộc VN”. Nếu chúng ta cả tin vào lời ngon tiếng ngọt trong NQ36 để tự đặt ḿnh vào tầm ảnh hưởng và chi phối của họ th́ họ sẽ trở giọng gọi chúng ta là “bọn đầu hàng giai cấp” và nói theo một nhà báo VC: “bọn thú đă được đảng ta cải tạo thành người”. Chắc chắn khi ấy chúng ta sẽ thật sự trở thành thần dân của họ và có bổn phận đóng góp để họ “phát triển đất nước” và thi hành những công tác do họ giao phó, những công tác có thể vi phạm luật pháp của quốc gia nơi chúng ta đang sống. Xin nhớ lại trường hợp Trương Đ́nh Hùng trong một điệp vụ hồi đầu năm 1978 mà hậu quả là anh ta đă lănh 15 năm tù trên đất Hoa kỳ. Hơn thế nữa, con quạ nghe lời nịnh hót của con chồn chỉ mất miếng phó mát, c̣n chúng ta nghe lời ngon tiếng ngọt trong NQ36 sẽ tán gia bại sản, gia đ́nh tan nát và mất cả mạng sống.
VC đă quyết tâm thôn tính Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS bằng NQ36. Họ đă chuẩn bị khá chu đáo sự thi hành Nghị quyết. Kèm theo NQ36 là quyết định số 110/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng VC đề ra “Chương tŕnh hành động” với 10 công tác phải làm để “thực hiện thắng lợi” NQ36. Ngày 21/7/2004, một hội nghị do Bộ chính trị VC triệu tập tại Hà Nội gồm “Ban cán sự đảng Bộ ngoại giao, Ban cán sự đảngngoài nước, Ủy ban về người Việt ở nước ngoài, Mặt trận Tổ quốc, Ban tư tưởng văn hóa trung ương” để học tập và phổ biến NQ36 đến “cán bộ chủ chốt các bộ, ban, ngành ở trung ương và 64 tỉnh thành trong cả nước”. Trong hội nghị, Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc của VC, đă công khai hóa “Hội thân nhân Việt kiều”, một tổ chức đă được thành lập và hoạt động từ năm 1994. Trong hội nghị này, VC đă hạ lịnh cho toàn “đảng”, cho cả guồng máy chính quyền của họ “thực hiện thắng lợi NQ36”.
Với những công tác chuẩn bị ồn ào nói trên, VC có ảo tưởng đồng bào hải ngoại
- Sẽ tin những lời vuốt ve bịp bợm của họ,
- Sẽ tin các chiêu bài cũ rích của họ,
- Đă quên hằng ngàn nông dân Quỳnh Lưu (Nghệ an) bị họ thảm sát vào năm1958
- Đă quên trên dưới một vạn đồng bào bị họ thảm sát tại cố đô Huế và các nơi khác,
- Đă quên hằng vạn nam phu lăo ấu bị thảm sát trênĐại Lộ Kinh Hoàng và Liên Tỉnh Lộ số 7,
- Đă quên trên nửa triệu đồng bào lấy đáy biển làm huyệt mộ,
- Đă không hay biết việc họ dâng đất, dâng đảo, dâng biển cho Tàu cộng,
- Đă quên những thủ đoạn tàn độc của họ trong quá khứ,
- Đă quên những cực h́nh, đày đọa, sỉ nhục trong các trại tù khổ sai mang mỹ từ “trại cải tạo”,
- Đă quên những nỗi đau thương tinh thần lẫn thể chất trong các”vùng kinh tế mới”,
- Không hề lưu tâm đến những ǵ họ đang làm trong hiện tại: đàn áp tôn giáo, chà đạp nhơn quyền, tiêu diệt dân chủ, cưóp nhà, giựt đất của dân và của các tôn giáo,
- Xuất cảng trẻ thơ hành nghề mải dâm tại Cao Miên v..v…
để tiếp tay với họ “thi hành thắng lợi NQ36”.
Kỳ vọng càng cao, thất vọng càng lớn. VC đánh giá quá thấp trí nhớ và sự hiểu biết của đồng bào hải ngoại về bản chất lừa bịp cố hữu của họ. Những ǵ họ kỳ vọng nơi đồng bào sẽ không bao giờ xảy ra! Nói như thế không phải người viết khinh địch và quên lời nói của người xưa “chưa thắng đă kiêu, chưa thua đă rối”. Chúng ta “không kiêu”, chúng ta “không rối”. Chúng ta chỉ có một quyết tâm: vô hiệu hóa NQ36 bằng biện pháp tẩy chay những ǵ liên quan đến VC để họ không c̣n phương tiện cứu “đảng”, cứu chế độ, một chế độ phi nhân, tàn độc chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà, một chế độ làm kinh tài bằng cách xuất cảng trẻ thơ làm gái măi dâm và xuất cảng công nhân làm nô lệ ngoại bang. Quyết tâm đó đă tỏ ra khá hữu hiệu qua lời ghi nhận của tà quyền VC. Thật vậy, theo “Cục Đầu Tư Nước Ngoài” của VC, số tiền “Việt kiều” mang về đầu tư, sau gần hai năm NQ36 được ban hành, không tới 300 triệu mỹ kim, một số tiền “chưa tương xứng với tiềm năng” của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại. Mặt khác, “Uỷ Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” của VC ghi nhận: chỉ có độ 200 trong số khoảng 300,000 trí thức người Việt Nam ở hải ngoại về nước “đóng góp một cách rất hạn chế”.

Một quyết tâm đáng vinh danh cần được kể ra. Đó là sự tẩy chay không tŕnh diễn của hai ca sĩ hải ngoại - Diễm Liên và Nguyên Khang. Hai vị nghệ sĩ này đă “từ chối bước lên sân khấu” và bỏ về Hoa Kỳ trong đêm tŕnh diễn văn nghệ 09-09-05 tại Úc châu khi biết đêm văn nghệ do VC tổ chức.

Chúng ta có thể xem NQ36 như một cuộc “tổng công kích” nhằm vào cộng đồng người Việt Tị Nạn CS giống như cuộc “Tổng công kích Tết Mậu Thân” năm 1968 của CSBV nhằm vào VNCH. CSBV đại bại trong cuộc “Tổng công kích Tết Mậu Thân”, một phần lớn nhờ sự chiến đấu dũng liệt và tuyệt vời của các quân binh chủng VNCH. Một yếu tố khác không kém phần quan trọng: Đồng Bào Miền Nam. Nếu đồng bào hưởng ứng lời kêu gọi “tổng nổi dậy” của CSBV, vác cờ búa liềm, cờ đỏ sao vàng, cờ Mặt trận giải phóng Miền Nam, bích chương biểu ngữ đi biểu t́nh ủng hộ, hoan hô “kách mạng” th́ cuộc diện lúc bấy giờ sẽ ra sao? Cuộc “Tổng công kích bằng NQ36” của VC nhằm vào Cộng đồng người Việt Tị Nạn CS cũng sẽ thành công, nếu người Việt hải ngoại hưởng ứng và tin các chiêu bài lừa bịp dẫy đầy trong NQ36! Trong sớ tŕnh vua Tự Đức, quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường viết: “Không lo bọn giặc ngang ngược. Chỉ lo ta không thể tự cường. Không lo bọn giặc tham tàn, chi lo ta không thể tự giữ”. Vậy, NQ36 thành công hay thất bại là do ta quyết định chớ không do VC.

KẾT LUẬN

Nghe mà biết không bằng thấy mà biết, thấy mà biết không bằng ở mà biết (13). Người đă nghe, đă thấy và đă ở trong chế độ VC trên dưới 60 năm hẳn biết rơ bản chất lừa bịp của VC. Đó là ông Bùi Tín. Trong bài “Nghị Quyết 36 ư? - Trật lất”, ông ta đă viết: “Họ leo lẻo: “NQ36 tỏ rơ sự quan tâm của đảng và nhà nước với gần 3 triệu bà con ta ở nước ngoài”. Tôi đánh giá: “Giả dối! Đạo đức giả! Trâng tráo”. Họ uốn lưởi: “Nghị Quyết 36 sẽ khuyến khích bà con ta hướng về quê hương và tham gia xây dựng đất nước". Tôi đánh giá: “Ảo tưởng! Đến Tết Công-Gô”. V́ sao? V́ những người chuẩn bị cho Nghị Quyết, dự thảo Nghị Quyết, thông qua Nghị Quyết vẫn giữ nguyên cái năo trạng cổ lỗ: Trịch thượng, ban ơn, bố thí, làm cha mẹ dân đen. V́ sao nữa ư? V́ những người như ông Vũ Khoan, phó thủ tướng, như ông Nguyễn Phú B́nh, thứ trưởng ngoại giao, hai nhân vật chủ chốt viết nên bản dự thảo Nghị Quyết này, cũng có chút ít học vấn, cũng có đi đâu đó ra nước ngoài, có phải u mê đâu mà khi đề cập vấn đề người Việt ở nước ngoài lại quên khuấy đi - hay cố t́nh giả bộ quên - vấn đề đầu tiên là: Do đâu mà có gần 3 triệu người Việt rải rác khắp nơi? Phải đi từ nguyên nhân cơ bản mới nh́n ra vấn đề và giải quyến vấn đề chứ! Vậy nguyên nhân cơ bản ấy là ǵ? Họ có dám nh́n vào sự thật hay không? Hay vẫn cứ giả chột, giả mù? Xin nói thẳng ra là: Hèn! Vậy xin thưa: số đông bà con ta lớp lớp gạt nước mắt bỏ nước ra đi, trên những tàu thuyền ọp ẹp, trước sóng to gió lớn của biển cả hung dữ, chỉ v́ một loạt chính sách: “trả thù”, “phân biệt đối xử”, “hạ nhục kẻ thua trận”, “cải tạo bằng nhà tù”, “diệt trừ tư sản”, “cưởng bức đi kinh tế mới”, “xét theo lư lịch”, “hộ khẩu thành phố không cấp cho bọn ngụy”… Để đến mức người dân có lương tâm và tự trọng cảm thấy bơ vơ lạc lơng trên chính quê hương ḿnh; đến độ cái cột đèn có chân cũng phải ra đi”- Bùi Tín.

Một nhà báo người Pháp đă định nghĩa chủ nghĩa cộng sản bằng bốn chữ “M”: Mensonge (láo khoét), Meurtre (sát nhơn), Misère (khốn khổ), Menace (đe dọa).
Người xưa đă dạy: “Non sông dễ đổi, bản tánh khó dờ́”. Từ năm 1917 đến ngày hôm nay và cho đến lúc chủ nghĩa cộng sản cáo chung, bốn chữ “M” nói trên vẫn gắn liền với các chế độ cộng sản bất cứ dưới gầm trời nào – Tàu cộng, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam, Liên Bang Sô Viết, Đông Đức (trước kia). Dĩ nhiên, bốn chữ ấy không thiếu vắng trong Nghị quyết 36. Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong “Đêm Giữa Ban Ngày”, đă viết: “Cô tôi khuyên tôi: Cháu phải tỉnh trí, chớ có nghe cộng sản. Cộng sản bất nhân lắm. Ḿnh là người tử tế, phải chọn bạn mà chơi. Nghe ngon ngọt lắm vào rồi đi theo họ, hối không kịp” (14).

MX Lê Công Truyền
30 tháng 4 năm 2008


Cước chú
1) Nhất Linh, Đoạn Tuyệt, do nhà xuất bản Đời Nay in tại nhà in riêng, không ghi ngày tháng và nơi xuất bản, trang 100: “…biểu hiệu cho đất nước không phải là những bậc vua chúa mà chính là đám dân hèn không tên, không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân ấy”.
2) Bossuet: “L’objet de l’administration est de rendre la vie commode et les hommes
heureux”.
3) Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyền I, Bộ Giáo dục, Trung Tâm Học Liệu xuất bản lần thứ nhứt, năm 1971, Saigon, tr. 264 (Vua Lê Thánh Tôn bảo với triều thần: “Ta phải giữ ǵn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái-Tổ để lại”).
4) Nhà văn Tào Mạt: “Đất nước ta không chỉ có sông có núi. Phải có người, người phải có đầu có cuối, có nghĩa có nhân, có trí, dũng, liêm, trung. Biết nhớ ơn tổ tiên, biết kính cha, thương mẹ. Biết đùm bọc lấy nhau, đói no chia xẻ. Ấy mới xứng câu: Nam Quốc Sơn Hà…”
5) Trần Ngươn Phiêu, Những Ngày Qua, nhà xuất bản Hải Mă, Santa Ana, CA, 2005, tr. 121-138.
Nguyễn Long Thành Nam, Phật Giáo Ḥa Hảo Trong ḍng Lịch Sử Dân Tộc, Tập San Đuốc Từ Bi xuất bản, Santa Fe Springs, CA, 1991, tr. 359-367
6) Le Livre Noir Du Communisme, Edition Robert Laffont, S.A. Paris, 1997 (Pourquoi ? par Stéphane Courtois, tr. 816: “Qui n’est pas avec moi est contre moi – Qui est contre moi doit mourir” (Lénine). Trong “L’État et la Revolution”, Lénine viết: “Chánh phủ vô sản cần phải giết hết giai cấp tư sản để đi đến thắng lợi”!
7) Cách nay mấy năm, tên cai thợ Jang Mi Beak trong hảng đóng giày Sam Yang của Nam Hàn tại Sài G̣n, đă lột giày đập trên đầu 15 công nhân VN. Cái gọi là ṭa án nhân dân của VC xử phạt 50,000 đồng, khoảng 4, 5 mỹ kim. Tại sao không kêu án tù con mụ này v́ tội hành hung, bắt hảng đóng giày bồi thường thiệt hại cho 15 công nhân và tống cổ y thị ra khỏi VN? “….trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động” (Điều 4 HP 1992 của VC) theo kiểu cấu kết với ngoại bang để đè đầu cởi cổ công nhân! Sẵn đây xin nhắc lại: Ngày 19/01/2008, sinh viên biểu t́nh phản đối Tàu cộng, mỗi em bị “xử phạt hành chính” 350,000 đồng.
8) Điều 51 Đạo luật về giáo dục, tháng 12 năm 1997 của VC (Philip Papin, Việt Nam, Hành Tŕnh Một Dân T ộc do Nguyễn Khánh Long dịch, tr. 91
9) Le Livre Noir Du Communisme, Edition Robert Laffont, S.A. Paris, 1997 (Les Crimes du Communisme, par Stéphane Courtois, tr. 14)
10) Michel Tauriac, Viet Nam, Le dossier noir du communisme de 1945 à nos jours, Éditions Plon 2001, Saint-Armand-Montrond, France, tr.100-108
11) Ban Biên Tập Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận (Tiếng nói của Người Dân Việt Nam đ̣i Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận) số 47, 15-03-2008, tr.1
12) Ngày 14/10/2004, sinh viên năm thứ nhứt trường Đại học Bách khoa St Petesburg đă bị một toán “đầu trọc” Nga hành hung và đánh chết một cách dă man. Năm 2007, một thiếu nữ VN bị giết chết tại Mạc Tư Khoa. Cách nay mấy năm, chợ của đồng bào tại Mạc Tư Khoa bị đốt phá. Trước thảm cảnh của đồng bào thần dân cộng ḥa xă hội chủ nghĩa VN, đại sứ VC tại Nga đă im hơi lặng tiếng để được tiếp tục làm ĐS. Hở môi phản đố́ sẽ bị tống cổ về VN chịu số phận của Đinh Bá Thi! Đă bao lần ngư dân VN bị “tàu lạ” bắn chết trong “vùng đánh cá chung” (chữ trong thông cáo của VC, không dám nói thằng là tàu của hải quân Trung cộng; hèn đến thế th́ thôi!) và khi Tàu cộng lập Huyện Tam sa vào ngày 2/12/2007 để thống trị hai quầng đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt nam, bộ sậu “tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội, tổng trưởng ngoại giao” đă ứng dụng câu “im lặng là vàng” để “môi không hở” th́ ‘răng không lạnh” và giũ cho “sông liền sông, núi liền núi. T́nh hữu nghị đời đời bền vững” để sau nầy hai nước “anh em” sáp nhập làm một cho tiện việc buôn dân bán nước.
13) Lục Du, Nhà Tống (Tầu): “Thính tri bất như kiến tri, kiến tri bất như cư tri”
14) Vũ Thư Hiên, Đêm Giữa Ban Ngày, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ California, 1997, tr.248