Viết Thay..

Mai văn Tấn

Trong nổi cơ cực, lầm than, quân cán chính của chinh quyền miền Nam VN phải gánh chịu ở ngă rẽ vô cùng đen tối của lịch sử dân tộc, nếu không nhắc đến sức chịu đựng mănh liệt và bền bỉ của người phụ nữ nói chung và người vợ của tù cải tạo nói riêng là một thiếu sót to lớn.

Thật vậy “Trải qua một cuộc bể dâu”, nh́n lại đoạn đường đau khổ mà các bà đă đi qua, không những cơ cực vật chất mà về tinh thần phải chịu sức ép của CS t́m mọi cách dể trả thù mặc dầu miệng nói “người nào làm người ấy nấy chịu”. Chúng ta, những người tù cải tạo chịu đựng những ǵ gọi là đau khổ nhất th́ chúng ta càng thông cảm nổi niềm của các chị vợ lính cũng là vợ tù “cải tạo”. Chúng ta chết khi không nhận kịp ḿnh c̣n quá trẻ. Chúng ta không bao giờ quên người vợ đau khổ không c̣n thời gian rảnh rỗi, cho đến khi nh́n lại mái tóc huyền ngày nào giờ đă bạc phơ. Số mệnh người vợ đă gắn với định mạng chồng theo sự thăng trầm của vận nước.

Nhưng những ǵ đă vượt qua, những khó khăn gian khổ phải chịu đựng, bây giờ chỉ c̣n là những kỷ niệm đáng quí, một quá khứ hào hùng của một thuở nào. Mỗi lần tăng thêm một tuổi thọ, chúng ta hăy hảnh diện và bằng ḷng những điều chúng ta đă làm, không c̣n cảm thấy đau khổ, uất ức mà cảm thấy thanh thản khi kể lại những câu chuyện đầy máu và nước mắt.

Người VN ảnh hưỏng nhiều đến tư tưỡng Khổng Mạnh để áp đặt trật tự xă hội. Những nguyên tắc về “tam ṭng, tứ đức” theo đà văn minh của nhân loại không c̣n tính chất tuyệt đối. Nhưng trong chừng mực nào đó, cũng c̣n ảnh hưởng đến người phụ nữ VN.

Như h́nh với bóng bên cạnh chồng để an ủi, chia xẻ ngọt bùi trong cuộc sống thăng trầm theo vận nước. Đặc biệt trong cuộc chiến vừa qua, người phụ nữ VN đă nổi bật trong vai tṛ người vợ, người mẹ, đôi khi đóng vai tṛ của một người cha để sống c̣n trong hoàn cảnh hết sức khó khăn và gian nan này :

“ Ngọt bùi thiếp đă hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân,
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài quạnh quẽ biết bao..”
( Chinh phụ ngâm)

Hay h́nh ảnh của người vợ, người t́nh luôn luôn quấn quít theo bước người đi :

“ Em đến bên ta như sợi tơ mong manh
Trong chiều Thu xa lắc,
Em đến bên ta như giọt mưa
Sáng Sài g̣n, chiều Đà nẳng, trưa Nha trang..”

Trong cuộc chiến 1954-1975 nhiều thế hệ thanh niên đă “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, bước vào đời quân ngũ khi tuổi đời c̣n rất trẻ. Người người đi lính, nhà nào cũng có ít nhất một người trong quân ngũ. Đời cô gái thuở ấy đại đa số đă dính liền với lính? Không lẽ cứ chờ cuộc chiến không biết bao giờ chấm dứt mới lập gia đ́nh? Thế nên người con gái khi bước vào đời luôn phải bận tâm lo lắng theo bước quân hành của người chồng lính. Những địa danh tuy xa lạ với người thị thành nhưng rất quen thuộc với những yêu của lính.

“Nếu em không là người yêu của lính,
Ai thương nhớ em chiều dừng hành quân...”

Tin tức chiến sự ngày càng ác liệt th́ tâm sự của người vợ lính ngày càng canh cánh lo âu. Họ luôn luôn theo dơi và lo lắng sự an nguy của chồng. Đêm đêm nh́n ánh sáng hỏa châu, họ lo lắng cho người chồng của ḿnh đang đối đầu với lằn tên mũi đạn. Trong đầu lúc nào cũng vang lên khúc ca sầu thăm “ ngày mai đi nhận xác chồng”. Biết bao người vợ phải để tang chồng khi c̣n quá trẻ. Người chinh phụ nh́n vào đó mà đau buồn, khắc khoải không biết đến bao giờ là phiên ḿnh. Những người con gái trẻ th́ lắc đầu ngao ngán.

“Mùi hương cứ ngỡ hơi chồng,
Ôm mồ cứ tưởng ôm ṿng người yêu,,”

Sự xâm nhập của quân CSBV ngày càng ồ ạt, cuộc chiến bảo vệ miền Nam càng khốc liệt, làm cho sự lo lắng của người vợ lính ngày càng tăng. Người ta lo sợ khi nh́n những người cùng đơn vị với chồng ḿnh xuất hiện trước cánh cửa nhà một cách bất ngờ. Báo tin buồn cho những người vợ lính là một nhiệm vụ khó khăn nhất của những người lính ở hậu cứ. Khi đơn vị đang tham dự những cuộc hành quân ác liệt với CSBV, càng có nhiều người hy sinh, trại gia binh, hậu cứ càng nhiều vành khăn sô. Đơn vị trưởng nhiều khi phải tránh đi không can đảm nh́n vào những cảnh tượng đó.Người lính chịu nhiều mất mát đau thương, sống nay chết mai, người vợ lính cũng đau khổ và buồn phiền không kém. Nh́n cảnh người bạn mất chồng mà đau ḷng thầm nghĩ không biết bao giờ đến phiên ḿnh. Mặc dầu chấp nhận làm vợ lính là đương nhiên chấp nhận đau thương và mất mát. Bên ngoài sự hào hùng anh dũng th́ mặt trái là đau buồn, lo âu nhưng họ không c̣n chọn cách nào khác hơn v́ vận nước :

Em đến bên ta, nhớ lời ta khẽ nói,
Khép lại giùm ta, đời lính trận hôm qua,”

Một câu chuyện vô cùng thương tâm ở một tiểu đoàn TQLC, vị thiếu tá tiểu đoàn phó đă hy sinh trong một trận đánh ở vùng giới tuyến không lấy được xác. Đơn vị phải báo cáo mất tích. Sau ngày ngưng bắn 27/1/73, tiểu đoàn đă trở lại chỗ cũ và t́m được xác anh, sau đó anh được chuyển về Sài G̣n để gia đ́nh lo việc mai táng. Hậu cứ biệt phái cho vợ anh một chiếc xe jeep để sử dụng trong thời gia tang lễ. Nhưng một tai nạn bất ngờ đă xảy ra ở xa lộ Biên Ḥa trên đường trở về nhà từ nghĩa trang, chị đă chết theo anh bỏ lại một mẹ già và 4 con nhỏ không ai chăm sóc. Đấy là một câu chuyện có thật điển h́nh trong muôn ngàn đau thương trong suốt cuộc chiến.

Rồi những người lính hy sinh một phần thân thể th́ cũng là một gánh nặng với lo âu và buồn phiền cho người vợ lính. Suốt đời phải chăm sóc cho một ông chồng tật nguyền với đàn con nhỏ dại. Đôi vai gầy guộc phải gánh nặng suốt đời chỉ được nghỉ ngơi khi xuôi tay nhắm mắt.

Năm 1975, miền Nam đă bị cưỡng chiếm, CS đă chủ trương bần cùng hóa nhân dân miền Nam cho bằng miền Bắc để cùng “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN” và hơn 34 năm sau vẫn c̣n nghèo đói, lạc hậu, mất tự do và đau khổ triền miên.

Hơn một trăm ngàn quân cán chính của miền Nam bị đẩy vào các trại tù CS. Những người phụ nữ bấy giờ bước vào thời kỳ đen tối nhất, bị đẩy vào đường cùng không lối thoát. Trong khi chồng bị đày ải đến những vùng thâm sơn cùng cốc, lam sơn chướng khí th́ họ và các con bị đưa vào những vùng khô cằn sỏi đá mà chúng gọi là “khu kinh tế mới”. Sau ngày 30/4/75 tất cả đều thay đổi. Tất cả đều trắng tay. Họ phải làm sao đây với chính bản thân họ, với đàn con nhỏ dại. Những thành phần có nghề nghiệp chuyên môn chúng c̣n giữ lại làm việc tuy đồng lương thấp nhưng cũng đở phần nào. Đa số chưa sẳn sàng một cái nghề th́ phải xoay trở bằng mọi cách cho sự sống c̣n của gia đ́nh. C̣n ở vùng kinh tế mới th́ không thể sống được, họ phải dẫn con trở về ngôi nhà cũ đă bị chiếm mất rồi, nên đành phải lang thang đầu đường xó chợ, gầm cầu hay nhà ga xe lửa. Phải làm đủ nghề từ buôn thúng bán bưng, kể cả giúp việc cho người khác. Biết bao người bất đắt dĩ bước thêm bước nữa mà trong ḷng rất đau thương và phiền muộn.

Ngoài việc lo cho các con, mối bận tâm nhất là phải lo cho chồng. Hết thời gian của cái gọi là Ủy ban quân quản ấn định, họ mong ngóng tin chồng. Lúc nào cũng bồn chồn lo lắng, không biết chồng ḿnh sống chết ra sao. Có những người chết trong thời gian ở tù, VC không bao giờ báo tin cho gia đ́nh hay biết. Khoảng gần một năm bắt đầu cho gởi thư, một tháng một thư bay về gia đ́nh với ḥm thư (từ ngữ VC) nhưng không được báo đang ở đâu. Gia đ́nh nhận thư chỉ biết là c̣n sống và mạnh theo trong thư chứ không biết ǵ hơn. Tất cả thư trước khi được gởi đi bao giờ cũng bị kiểm duyệt. Sau đó thông báo về cho gia đ́nh gởi quà 3kg ba tháng một lần.

Nhiều bà đă quá nôn nóng đă bôn ba bằng mọi cách để biết được tin tức chồng. Sau đó tất cả bị di chuyển ra miền Bắc và được gởi quà 5 kg/ba tháng một lần.

Cuối năm 1978, t́nh h́nh an ninh phía Bắc, Trung Cộng đ̣i dạy cho VC một bài học về tội lừa thầy phản bạn, tù nhân được chuyển dần về phía Nam và từ quân đội chuyển qua cho công an quản lư. Đây là thời gian te tua nhất trong tù. Không c̣n khoai sắn để mà ăn. Phạm Văn Đồng phải qua Ấn Độ xin viện trợ. Và đây là lúc tù trong và dân ngoài đều được thưởng thức một loại “cao lương” gọi là BOBO, một loại thực phẩm dành cho ngựa mà dân “cà ri” có nhă ư tặng cho “người VN ngàn lần anh hùng”.

Ăn vào bao nhiêu th́ cho ra bấy nhiêu, chẳng c̣n một chút bổ dưỡng nào được giữ lại trong cơ thể. Sức khỏe tù nhân vô cùng tệ hại, cơ thể suy nhược, và nhiều người đă chết. “Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến”.

VC phải cho gia đ́nh tiếp trợ thăm viếng để giảm bớt số người chết. Mục đích thăm nuôi là cho tù nhân có được thực phẩm và thuốc men để sống c̣n. Thật không có chế độ nào mà bắt nhốt người mà gia đ́nh phải đi nuôi. Chắc chỉ có độc nhất ở cái “xă hội ưu việt” này mà thôi. Nuôi chồng không phải gia đ́nh nào cũng có tiền của sau khi đă bị CS trấn lột bằng cách đổi tiền nhiều lần, ngọai trừ những người có thân nhân ở nước ngoài.
Thăm nuôi chồng con cũng không có ǵ đơn giản dưới chế độ “không có ǵ quí hơn độc lập tự do”. Các bà phải đến phường khóm, xă để làm đơn xin thăm nuôi. Trước khi thị thực vào đơn, bọn sâu bọ lên làm người bèn lên tiếng phán dạy:

_“Chồng chị nợ máu với nhân dân, nay được cách mạng khoan hồng cho học tập cải tạo để trở thành con người mới trong XHCN. Chị phải động viên chồng chị phải học tập tốt, lao động tốt để CM sớm cho về xum họp với gia đ́nh.”

Sau khi được giấy rồi, bắt đầu lo mua sắm thực phẩm, thuốc men cần thiết. Cũng nên nhắc lại sau các đợt đổi tiền để cướp giật tài sản của người dân miền Nam, các bà đi mua sắm phải nhịn ăn nhịn mặc để có một số tiền sắm sửa cho chồng. Đến khi mua vé xe lửa để ra Hà Nội th́ không mua được. V́ nóng ḷng không thể chờ đợi nên các bà đi bằng cách “nhảy tàu”, có nghĩa là đi tàu không có vé, nếu gặp phải người kiểm soát th́ đóng tiền phạt. Không có chỗ th́ ngồi trên sàn, chỗ nào ngồi được th́ ngồi. Mỗi lần đi các con phải từng đứa để gặp cha. Tôi nhớ có một lần đứa con sinh năm 1973 đă đ̣i mẹ cho đi thăm trước. Mẹ cho con đi thăm ba, v́ từ hồi sinh ra đến giờ chưa biết mặt ba. Xuống sân ga gần nhất để vào trại cải tạo, theo lời hướng dẫn trong thư hoặc đi theo người trước. Các bà phải dùng mọi phương tiện như xe ḅ, xe trâu, nếu không th́ phải gánh gồng đi bộ vài ba chục cây số dưới ánh nắng mặt trời gay gắt mùa Hè hay cái lạnh se thắt của mùa Đông ở miền Bắc. Đến trại, trước khi được gặp chồng, các bà lại bị đám cán ngố lên lớp:

_ “Các chị phải động viên các anh lao động tốt, học tập tốt để được sớm cho về đoàn tụ gia đ́nh. Thời gian lâu hay nhanh là do sự học tập tiến bộ của các anh ấy.”

Sau đó được gặp chồng khoảng 10 hay 15 phút trên một chiếc bàn dài, một bên là tù, một bên là thân nhân, đầu bàn là một cán ngố ngồi kiểm soát. Sau đó được mang quà vào trại và để lại sự ngậm ngùi của vợ con vượt hàng ngàn cây số để được gặp chồng trong ṿng 15 phút mà những giây phút đầu tiên c̣n ngỡ ngàng và đầy nước mắt.

Như thế là c̣n may mắn, có những bà đến thăm lúc chồng đang bị kỷ kuật th́ bị “lên lớp” với những danh từ đao to búa lớn lê thê dài ḍng mà vô nghĩa như con vẹt học nói tiếng người, “cán bộ” quyết định không cho gặp cũng như không cho nhận quà. Các bà v́ thương chồng khóc lóc xin xỏ thế nào cũng không được. Các bà phải giải quyết làm sao với với gánh thực phẩm và thuốc men này đây. Nhiều khi các bà gầm thét, văng tục để bớt đi nỗi uất nghẹn trong ḷng. Nhưng khi nghĩ đến thân phận của chồng nên đành ngậm miệng với bao uất hận và đắng cay.

C̣n có những bà bất hạnh hơn, thăm chồng nhưng chồng đă chết đi từ lâu. Cán ngố nói quanh chứ không bao giờ dám nói ra sự thật. Chỉ đường qua liên trại rồi đến trại khác để hỏi. Mỗi lần như thế các bà phải đi hằng chục cây số, rồi cuối cùng v́ quá uất ức, các bà phản ứng dữ dội, khi đó cán ngố mới thú thật. Các bà đau khổ quá sức chịu đựng, cũng phải hằng ngàn dặm để trở lại nơi thâm sơn cùng cốc để bốc mộ chồng với những nấm mồ không có mộ bia thể theo lời chỉ dẫn của cán ngố hoặc anh em tù khi đi chôn cất họ c̣n nhớ được.

Đến năm 1980 về sau, CS c̣n âm mưu cứu xét những người tù gọi là lao động tốt, chấp hành nội quy tốt để được thăm 24 tiếng. Thật là một sự dă man, bốc lột đến tận xương tuỷ người tù. Tôi ở tù gần 13 năm tôi chẳng hiểu thế nào là lao động tốt hay chấp hành nội quy tốt là ǵ. Đó là âm mưu của CS bóc lột và gây chia rẽ trong hàng ngũ quân cán chính VNCH mà thôi. Chúng c̣n dùng miếng ăn để sai khiến những người tù nhẹ dạ làm những chuyện trái lương tâm và phản lại anh em mà thôi. Nhiều người kiệt sức và ngă quỵ v́ nghe theo CS nên khó nh́n mặt lại anh em sau khi được thả về.

Về phần các bà thật là bị sỉ nhục và khó khăn để ch́ều chồng trong hoàn cảnh thật man rợ do bọn CS gây nên. Sự việc đó có thể gây ra đổ vỡ hạnh phúc bao gia đ́nh v́ nghi ngờ sự chung t́nh của người đầu ắp tay gối.

Thảm cảnh miền Nam bây giờ cũng không bút mực nào diễn tă hết. Mọi ngựi sống chán ngấy với bọn sâu bọ lên làm người. Lúc nào cũng huyênh hoang, đất nước ta từ nay đă độc lập, thống nhất và sạch bóng quân thù, cả nước đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN, nào là khó khăn chỉ là tạm thời, nào là tàn dư Mỹ ngụy. Ai cũng nghĩ cách để làm sao không c̣n thấy những cảnh dối trá, xảo quyệt, dă man của bọn người ngợm nên mọi người t́m cách vượt biên, đem sanh mạng đổi lấy tự do như nhà thơ Tô Thùy Yên đă viết :

Làng mạc giờ đây đă trống trơn,
Con dê, con chó cũng không c̣n.
Người đi bỏ xác nơi bờ bụi,
Miếu xạc thần hoàng rũ héo hon..

V́ vậy đă gây nên thảm cảnh đau thương làm thức tỉnh lương tâm của nhân loại cả thế giới. Nào nạn hải tặc Thái Lan, nào làm mồi cho cá, nào chết trong rừng sâu. Trong cuốn “ Cơn Hồng Thủy Biển Đông” của Cao Thế Dung, tổng kết dựa theo Cao Uy Liên Hiệp Quốc, con số hơn 600.000 người Viễt đă thiệt mạng trên đường đi t́m tự do. Thật là cái tang lớn và đau xót, chưa từng xảy ra cho dân tộc VN.

Bọn cầm quyền CS c̣n dự định tổ chức một vùng kinh tế mới tại Thanh Hóa để di chuyển tập trung tất cả tù cải tạo với h́nh thức chỉ định cư trú và bắt buộc phải mang gia đ́nh ra đó sinh sống cho đến chết. Rơ ràng CS muốn tiêu diệt các thế hệ của quân cán chính VNCH để trả thù. Nhưng mà “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, CS phải chống đỡ Miên Cộng do Trung Cộng xúi giục đánh phá vùng Tây Nam. Đến đần năm 1979, Trung Cộng đă xua quân tấn công hàng loạt các tỉnh phía Bắc để dạy cho VC một bài học. Công cuộc chỉ định cư trú của tù cải tạo phải tạm ngưng lại để di chuyển các trại tù vùng biên giới xuôi Nam. Nhà cầm quyền CS đang ở trong t́nh trạng “ tiến thoái lưỡng nan”. Để chúng ta ở lại th́ lại nghịch ḷng dân miền Nam và là thành phần chống đối lại CS. Ngược lại cho chúng ta sang Mỹ th́ “thả cọp về rừng”. Hơn nữa sự ra đi ào ạt sẽ gây xáo trộn cho các nước Đông Nam Á và bị chết quá nhiều qua các thăm cảnh trên biển Đông đă đánh thức lương tâm thế giới.

Nhờ chính những người như bà Khúc Minh Thơ, Tướng Vessey, Thứ Trưởng Ngoại Giao Robert Funseth và Tổng Thống Ronald Reagan cùng nhiều vị ân nhân khác đă kiên nhẩn quyết làm cho bằng được để cứu vớt chúng ta, nếu không chúng ta khó mà có ngày nay :

C̣n trời c̣n đất, c̣n non nước,
Chẳng lẽ ta đâu măi thế này.

Để tránh sự xáo trộn trật tự tại các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Mă Lai, Nam Dương, cũng như chấm dứt thăm cảnh cho người vượt biên đưa đến chương tŕnh ra đi có trật tự (O.D.P). Chương tŕnh gồm có số lượng quân cán chính của chính quyền VNCH thời gian ở tù từ ba năm trở lên. Các gia đ́nh đă có người vượt biên đă định cư tại các nước như Canada, Mỹ, Anh, Úc..bảo lảnh để đoàn tụ. Các gia đ́nh có con lai Mỹ cũng được ra đi.

Sau năm 1984, CS từ từ thả các tù nhân cải tạo cho đến mùa Xuân năm 1988 đại đa số được ra khỏi trại cải tạo về sum họp với gia đ́nh. Từ đó chuẩn bị giấy tờ cần thiết để nạp hồ sơ xin xuất cảnh. Một số ít gồm cán bộ t́nh báo cấp Phủ đặc ủy , các đơn vị 101.. cũng được thả ra sau vài năm. Đến ngày nay khoảng 3 triệu người sống răi rác trên khắp thế giới, đông nhất là Hoa Kỳ. Thời gian đầu được sự trợ cấp của nước tạm dung, với sự cố gắng vượt bực của các gia đ́nh tị nạn từ từ được ổn định đời sống thoải mái và tự do. Con cái sau thời gian chịu đựng âm thầm ở các khuôn viên đại học đă đạt được ước mơ. Nhiều người ở thế hệ thứ hai là những bác sĩ, kỹ sư, khoa học gia, những chuyên viên xuất sắc đă đóng góp cho các quốc gia mà họ định cư không ít.

Trải qua thời gian dài chịu đựng quá nhiều đau khổ theo vận nước, nhiều lúc những khó khăn gian khổ tưỡng chừng không vượt qua nỗi, nhưng cuối cùng đều được hanh thông. Những người chết chưa kịp nghĩ ra ḿnh c̣n rất trẻ. Những người phụ nữ đă phải chịu quá nhiều gian truân đau khổ, quên mất đi thời thanh xuân của ḿnh. Đến hôm nay bỗng nh́n lại th́ mái tóc huyền ngày xưa đă điểm sương, tuổi đời đă cao, nhưng tất cả đều ổn định, sống hạnh phúc với những ǵ mà ḿnh đă tạo dựng, với các con cháu thành đạt nên người.

Các ông ngày nay thân đă yên, gia đ́nh hạnh phúc, ai là nhạc sĩ sáng tác nhạc, văn sĩ viết văn, thi sĩ làm thơ... đều ca tụng và vinh danh các Bà. Các Bà rất xứng đáng được hưởng những ǵ mà các ông trân trọng dành cho. Tuy nhiên khi chúng ta đă yên thân, hạnh phúc, chúng ta không quên hơn 80 triệu đồng bào ta c̣n đang đau khổ. Tuy tuổi già, sức đă kiệt nhưng chúng ta quyết tâm tranh đấu và khuyến khích con cháu quyết tâm tranh đấu đến thắng lợi cuối cùng là quê hương VN tự do hạnh phúc no ấm và không CS.

Những lời trân trọng sự thủy chung của người đàn bà VN suốt đời hy sinh cho chồng con bất cứ ở hoàn cảnh nào và đă được đền bù cuộc sống c̣n lại thảnh thơi, hạnh phúc, con cái thành đạt và hằng ngày vui cùng đàn cháu ngoan. Nếu chúng ta biết được ân sủng của ơn trên đă dành cho ta, cũng như thấu hiểu được sự may mắn hiếm hoi ta nên chia xẻ ơn phước ta đă hưởng cho nhưng ai kém may mắn hơn. Đó là cách tạo sự hạnh phúc lâu dài, trải rộng t́nh thương đến mọi người, măi măi nhớ câu dùng t́nh thương hóa giải hận thù để mở rộng ḷng thương yêu đến mọi người. Một cách tạo hạnh phúc cho ta và cho tha nhân vậy.

Viết những lời thô thiển để ghi lại sự hy sinh thật cao cả của quư bà, một sự thật không thể chối căi trong khúc quanh lịch sử đau thương và mất mát. Măi măi vẫn là tấm gương sáng chói trong chiều dài lịch sử của dân tộc VN, măi măi vẫn là chân dung thật tuyệt đẹp của người phụ nữ VN
 

 


MỤC LỤC

Lá thư Sóng Thần

Hội TQLC Sacramento

Sinh hoạt hội Des Moines

Sinh hoạt liên hội Úc Châu

Des Moines nắng ấm t́nh nồng

Khoá 22 và Lam Sơn 719 Hạ Lào

60 Năm qua dạ vẫn tối

Âm Thoại Viên theo chân các Đại Bàng

Anh hùng tử, khí hùng bất tử

Hành tŕnh vượt biên

Bán sách, đi Tây

Biển vẫn đợi chờ

Buồn vui Đại Hội 2012

Vui buồn đời lính

Cao Xuân Huy - Mỉm cười nơi chín suối

CĐ B/TQLC - Cuộc hành quân đổ bộ Deck House V/Sóng Thần 1/67

Chuyện cô gái đồi sim

Chuyện dài đời lính

Chuyện một lá cờ

Con nuôi cha không bằng bà...

Cửa Việt bốn ngày đêm băo lửa

Đại Đội 1 Quái Điểu

Dài tựa thiên thu

Di tản chiến thuật

Đồi tranh 3 mộ

Sư Đoàn TQLCVN với hành quân Hạ Lào

Kẻ tự sướng

Lửa mùa hạ

Đốt ḷ hương cũ tái chiếm Quảng Trị

Sư Đoàn TQLCVN với hành quân Hạ Lào

Mănh Hổ: Chiến thắng TAKEO 1970

Once Upon a Time, Vietnam (Letter to my children)

Một hậu quả bất ngờ

Người lính TQLC Bên Bờ Bến Hải

Người Phụ Nữ VN trong văn chương b́nh dân

Nguyễn Phúc Thọ

Nhớ về Trâu Điên

Những Emails rất ngắn và rất thật về cuộc
Hành Quân Lam Sơn 719

Những lá thư từ tuyến đầu tổ quốc

Nỗi ḷng người lính

Nơi người lính đi qua

Nỗi ḷng người lính VNCH nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong

Nụ hôn đầu...    

Phóng sự lễ Độc lập tại Thành Phố AUSTIN

Người Phụ Nữ VN trong văn chương b́nh dân

Quá đă !!

Quê hương bỏ lại

Đại Đội 4/TĐ2 tái chiếm Dakto

Tạp Ghi - Chuyện "Nghề Tổ"

Tiểu Đoàn 2 - Trận chiến Tam Quan

Tháng Ba và Trung Đội 3

Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC Thần Tiễn

Tiểu Đoàn 5 TQLC Đánh Trên Đầu Địch

Tiểu Đoàn Truyền Tin

Toán Thủy Kích Sư Đoàn TQLC

TQLC Nam Cal & Xuân QUƯ TỴ

Trận chiến Đại Phú

Trung Đội Trưởng của tôi... Thiếu Úy Vũ Mạnh Cường

Tuổi Già

Ước Mơ

Viên ngọc nát

Viết thay..

Viết từ "Lưng Núi" Một chặng đời