Truyền-Thống Siêu-Việt Gần Năm Ngàn Năm của
Dân-Tộc Việt
Khải Chính Phạm Kim Thư
Có một số bạn trẻ đă thổ lộ với chúng tôi là họ không hiểu dân Việt ta có những
truyền thống cụ thể tốt đẹp như thế nào. Họ chỉ đau xót thấy nước ta hết bị Tàu
rồi đến Pháp đô hộ, tiếp đến, lại bị bọn tay sai Cộng Sản quốc tế, tức là bọn
Cộng Sản Việt Nam, một lũ táng tận lương tâm, đă phá hủy gia tài văn hóa, con
người, và đất nước Việt Nam đến tột cùng.
Loạn và trị là luật của tạo hóa. Bất cứ nước nào cũng không tránh khỏi định luật
này, lúc th́ cường thịnh khi th́ suy yếu. Mạnh như Liên Bang Sô Viết mà cũng bị
tan ră, cường thịnh như Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ cũng đang bị tai nạn dân chủ h́nh
thức quá trớn làm cho suy yếu đi. Tuy nhiên, nếu nh́n chung, ta vẫn thấy mỗi
nước đều có truyền thống tốt đẹp của họ.
Mặc dầu phải chịu bao nhiêu cảnh điêu tàn do quân xâm lăng Cộng Sản gây ra, nước
Việt của chúng ta vẫn c̣n tồn tại. Tuy phải sống lưu vong, chúng ta vẫn có văn
hóa, ngôn ngữ, và văn tự riêng biệt. Ngoài ra, người Việt chúng ta vốn đă thông
minh và tài giỏi không thua kém bất cứ giống người nào trên năm châu bốn bể. Sở
dĩ được như thế là v́ chúng ta có những truyền thống tốt đẹp từ lâu đời. Đó là
truyền thống văn hiến gần năm ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt.
I. Truyền Thống Gần Năm Ngàn Năm Văn Hiến 4883
(2004+2879)
1. Văn Hiến
Văn có nghĩa là chữ nghĩa và dáng vẻ; hiến là phép nước. Nói chung, văn hiến chỉ
nơi có phép nước, có nhiều sách vở hay, có nhiều người tài giỏi hiền đức, và có
văn minh lâu đời.
Căn cứ vào suốt ḍng lịch sử dựng nước và giữ nước, ta thấy có biết bao truyền
thống văn hiến tốt đẹp. Dưới đây là một số truyền thống mà ai đă là con dân đất
Việt cũng cần phải nhớ:
2- Truyền Thống Tiên Rồng
Chúng ta là ḍng dơi Tiên Rồng. V́ thế mà ta được thừa hưởng những đặc tính
tuyệt hảo của tổ tiên: đẹp và khỏe, khôn ngoan và dũng mănh, có t́nh có lư, và
có nghĩa có t́nh. Những điều này đă được chứng tỏ rơ ràng một cách hiển nhiên
qua những thời đại suốt ḍng lịch sự và qua chính con người Việt Nam trong ngót
năm ngàn năm văn hiến.
3- Truyền Thống về Nhân Bản, Dân Chủ, Nhân Quyền, Tư
Do, Đoàn Kết, Kính Trên Trọng Dưới, và Biết Tới Biết Lui Đúng Lúc
Những truyền thống này ta đă có từ gần năm ngàn năm, các nước Tây phương mới có
khoảng 300 năm nay mà thôi.
Câu truyện Phù Đổng đánh giặc Ân vào đời Hùng Vương thứ 6, câu chuyện người phụ
nữ có thai đến xin vua Hùng chia phần thịt, và câu truyện Hội Nghị Diên Hồng ở
đời nhà Trần trong lúc đánh quân Nguyên đă chứng tỏ những điều trên.
Câu chuyện Hội Nghị Diên Hồng vào đời nhà Trần chúng ta ai cũng đă thuộc. Câu
chuyện Phù Đổng chúng ta ai cũng đều nhớ. Ở đây chúng tôi chỉ rút ra những bài
học về nhân bản, dân chủ, nhân quyền, tự do, đoàn kết, kính trên trọng dưới, và
biết tới biết lui đúng lúc trong câu chuyện này mà thôi.
Trong câu chuyện về Hội Nghị Diên Hồng (đời vua Trần Nhân Tông,1279-1293), ta
thấy vua, quan, và toàn dân một ḷng quyết tâm đánh giặc Nguyên nên ta đă thắng.
Đó là bài học về truyền thống đoàn kết.
Trong chuyện Phù Đổng, ta thấy vua hỏi ư dân, coi trọng dân, và coi trọng cậu bé
Phủ Đổng; vua, quan, quân, và dân một ḷng đoàn kết đánh giặc. Khi cần giúp dân
phá giặc, cậu bé Phù Đổng xuất hiện; khi hoàn thành nhiệm vụ, cậu bé Phù Đổng về
trời.
T́nh vua tôi, thầy tṛ, cha con, và vợ chồng cũng đă được chứng tỏ qua việc
kính, trọng, và nhường trong xă hội và trong gia đ́nh.
Câu chuyện người phụ nữ có thai đến xin vua Hùng chia phần thịt đă ghi vào Thần
Phả xă Vũ Én, huyện Thanh Ba (do Nguyễn Khắc Xương sưu tầm, tạp chí Văn Học, số
2-1976). Chuyện xưa kể rằng vua Hùng cùng quân lính đi săn, lúc xẻ thịt chia
phần, một phụ nữ có thai đến xin chia phần thịt cho bào thai c̣n trong bụng mẹ,
binh lính không cho. Nghe sản phụ tŕnh bày rằng bào thai trong bụng cũng là một
người, và đă thành người, nhà vua thấy có lư bèn truyền chia cho sản phụ hai
phần thịt dành cho mẹ và con. Từ đó ta có lệ chia phần cho cả bào thai trong
bụng mẹ.
Tác giả câu chuyện trên không nói rơ sự kiện trên đă xảy ra vào đời Hùng Vương
thứ mấy. Nếu chúng tôi nhớ không lầm, câu chuyện này đă xảy ra vào đời Hùng
Vương thứ Sáu.
Người Bắc Mỹ đến nay vẫn chưa công nhận cái bào thai là một người. Nhân quyền,
dân chủ, và nhân bản của người Việt Nam đă có từ lâu đời, hơn hẳn các ước Âu Mỹ.
Ngoài ra, truyền thống văn hóa tôn trọng nhân vị của người Việt ta c̣n được thể
hiện trong việc tính tuổi con người. Mới sinh ra, đứa bé đă được tính là một
tuổi, có nghĩa là khi người mẹ mới bắt đầu có thai, bào thai đă được coi là một
người.
Theo luật pháp và văn hóa Tây phương, người ta không coi đứa trẻ trong bụng mẹ
là một người. Chính v́ thế mà khi đứa trẻ được tṛn một năm sau khi sanh mới
được người Âu Mỹ kể là một tuổi. Điều này chứng tỏ dân tộc ta đă tôn trọng nhân
vị, nhân quyền, và nhân bản từ gần 5 ngàn năm nay rồi. Người Tây Phương mới chỉ
có thứ nhân quyền dân chủ và tự do một cách h́nh thức mà thôi, tức là trên thực
tế hiện nay họ chưa có.
4- Truyền Thống Đồng Bào, Bầu Bí Đùm Bọc, Trẻ Cậy Cha
Già Cậy Con, và Hàng Xóm Tối Lửa Tắt Đèn Có Nhau
Ở Việt Nam, cha mẹ nuôi con ăn học đến lúc thành tài và c̣n đứng ra dựng vợ gả
chồng cho con. Ông bà cha mẹ con cái và cháu chắt thường sống chung dưới một mái
nhà để săn sóc nhau, không cần nhờ đến chính phủ. V́ có truyền thống tốt đẹp đó
mà Việt Nam ta trước năm 1975 không có chương tŕnh trợ cấp xă hội như ở Bắc Mỹ
này. Ngày nay lũ xâm lăng Cộng Sản tại Việt Nam phá hủy tất cả những truyền
thống tốt đẹp của tiền nhân mà chúng c̣n có cả một hệ thống đội ngũ ăn cướp do
chính quyền Cộng Sản chủ trương để bóc lột mọi thứ tài sản, tự do, dân chủ, nhân
quyền, và sức lao động của dân chúng. Tuy nhiên, nhờ có truyền thống tốt đẹp của
tổ tiên ta mà dân chúng vẫn có ḷng quật khởi để t́m cách giải trừ bọn quỉ đỏ.
Ở Bắc Mỹ này, người ta phải dùng pháp luật để ra lệnh cho con cái cấp dưỡng cho
cha mẹ. Trước đây, ở Miền Nam Việt Nam, cha mẹ và con cái tự động lo cho nhau đă
trở thành nếp sống; chữ hiếu được xếp vào hàng đầu của một trăm tính tốt: nhân
sinh bách hạnh, hiếu vi tiên. Chữ hiếu của người Tây phương không có chỗ đứng
trong gia đ́nh và ngoài xă hội. Về truyền thống hiếu thảo, ta hơn hẳn người Tây
phương.
T́nh hàng xóm của ta cũng rất thân mật và thắm thiết. Hàng xóm láng giềng tự
động giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt đèn đă trở thành phong tục. Chúng ta c̣n có
danh từ đồng bào, nó chứa đựng bao thân t́nh yêu thương và đùm bọc giữa những
người trong cùng một nước mà người Tây phương không hề có.
Ngay trong thời quân chủ, dân ta vẫn có dân chủ. Câu tục ngữ “phép vua thua lệ
làng” đă chứng tỏ việc này.
Người Bắc Mỹ quá tôn trọng quyền tự do riêng tư nên t́nh hàng xóm thật là hời
hợt. Họ sống bên cạnh nhà nhau mà không biết tên nhau và số điện thoại của nhau.
Nhờ vả nhau điều ǵ là cả một vấn đề khó khắn. Truyền thống "tối lửa tắt đèn có
nhau" của người Việt ta hơn hẳn t́nh hàng xóm của người Bắc Mỹ rất nhiều.
5-Truyền Thống Vuông Tṛn
Ca dao cua ta có câu: ba vuông sánh với bảy tṛn, đời cha vinh hiển đời con sang
giầu.
Ba vuông tượng trưng cho ba tiến tŕnh của công việc: thực thể, phát triển, và
cải tiến. Bảy tṛn tượng trưng cho 7 điều căn bản mà người ta phải theo để thành
công trong mọi việc: hiểu biết tường tận, chuyên cần, thận trọng tiên đoán pḥng
ngừa, làm việc có phương pháp và khoa học, biết cộng tác thương yêu, có tinh
thần dân chủ, và biết rút ưu khuyết để tiến tu.
Nhờ nguyên tắc vuông tṛn, tổ tiên ta đă trị nước an dân một cách văn minh vào
bậc nhất trong nhân loại. Vua Hùng Vương đời thứ Sáu đă căn cứ vào nguyên tắc
vuông tṛn để truyền ngôi cho hoàng tử Tiết Liêu (truyện Bánh Chưng Bánh Dày).
Vuông tượng trưng cho phép tắc luật pháp, tṛn tượng trưng cho ḷng nhân và t́nh
nghĩa. Lấy phép tắc và ḷng nhân để trị nước an dân th́ thật là tuyệt vời. Vuông
tṛn c̣n có nghĩa là ăn ở có trước có sau, có t́nh có lư, và biết nhớ ơn.
6- Truyền Thống Quyết Thắng, Được Không Kiêu, Thua
Không Nản
Những sự kiện nêu trong truyện Phù Đổng, sự đoàn kết trong Hội Nghị Diên Hồng,
việc Vua Quang Trung đại phá quân Thanh và việc B́nh Định Vương đánh quân Minh
trong mười năm trời để giữ và bảo vệ nước đă chứng tỏ truyền thống này. Sau khi
đại phá quân Thanh, Vua Quang Trung đă sai sứ sang Tàu cầu hoà. Khi thắng trận,
B́nh Định Vương đối đăi với kẻ bại trận rất khoan hồng độ lượng. Ngài nói rằng:
“Nếu ḿnh muốn thỏa cơn giận một lúc mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng th́
sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà tránh được cái mối chinh chiến về đời
sau và để lại tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh.” Chính v́ thế, B́nh
Đ́nh Vương đă tiễn biệt kẻ bại trận về Tàu một cách rất hậu .
Vào năm Mậu Tuất, 1418, ông Lê Lợi khởi binh ở núi Lam Sơn tự xưng là B́nh Đ́nh
Vương để đánh đuổi giặc Minh, quân thù của nước ta lúc bấy giờ. V́ thế lực của
B́nh Định Vương lúc đầu c̣n yếu nên ngài đă phải rút quân về núi Chí Linh ba lần
và gặp nguy cấp nhiều phen. Sau 10 năm với bao gian truân vất vả, B́nh Định
Vương đă lấy lại được gian sơn nước nhà từ tay giặc Minh để “Nam quốc sơn hà nam
đế cư.” Đó là truyền thống quyết thắng, được không kiêu, thua không nản.
7- Truyền Thống Ḥa Hóa
Ḥa để tồn tại, hóa để tiến bộ. Khi thế yếu, tiền nhân ta đă phải cầu ḥa để tồn
tại. Khi bị quân xâm lăng chiếm mất nước, tiền nhân ta đă biết cách biến hóa
những điều hay của địch thành cái hay của ḿnh để có nghị lực chống lại âm mưu
đồng hóa của giặc. Chính nhờ truyền thống ḥa hóa mà dân Việt ta, suốt trong một
ngàn năm bị Tàu đô hộ và một trăm năm bị Pháp xâm lăng, không những không bị
quân Tàu và Pháp đồng hóa mà c̣n giữ được nền văn minh và văn hóa riêng cho
ḿnh. Đây quả là một truyền thống độc đáo của dân tộc chúng ta.
8- Truyền Thống Học Giỏi, Thông Minh, Đảm Lược, và Tài
Đức Song Toàn
Chúng ta đă thấy những điều này trong lịch sử từ trước đến nay. Các danh sĩ của
ta như Mạc Đĩnh Chi (1280-1350), Trạng Quỳnh (1700-?), Đoàn thị Điểm
(1705-1746), Lê Quư Đôn (1726-1784) đă làm cho vua quan nước Tàu phải kính nể.
Quân Nguyên (Mông Cổ) tuy toàn thắng khắp nơi trên thế giới mà phải đại bại dưới
sức mạnh và tài trí của quân ta. Quân Mông Cổ chỉ bị thua ở Việt Nam mà thôi.
Quân ta đánh cho quân Mông Cổ tan tành tới hai lần: lần thứ nhất, Hưng Đạo Vương
đă quét sạch 50 vạn quân Mông Cổ vào tháng sáu năm Ất Dậu (1285); lần thứ hai,
vào tháng hai năm Đinh Hợi (1287), Hưng Đạo Vương lại đánh cho 30 vạn quân Mông
Cổ không c̣n mảnh giáp che thân.
Việc Hai Bà Trưng, nhị vị nữ lưu, đă đánh đuổi quân Tô Định để lập quốc và xưng
vương một cách dễ dàng đă làm cho giặc phương Bắc phải khiếp đảm kinh hồn.
Ngày nay c̣n có biết bao thanh niên đang làm vẻ vang cho dân Việt ở khắp nơi
trên thế giới. Đó là nhờ có truyền thống học giỏi và thông minh của tiền nhân
ta. Điều này cũng được khoa học hiện đại chứng minh. Tổ tiên thông minh th́ con
cháu mới thông minh. "Hổ phụ sinh hổ tử," và "Tel père tel fils"(cha nào con ấy)
là vậy.
Trong bài "Tản Mạn Cuối Năm về Việt Nam ta," Saigon Nhỏ, 23-02-96, Hà Nhân Văn
nói rằng ngay tại nước Mỹ hiện nay, trong số khoảng 300 triệu dân, nước Mỹ mới
có 2000 nhà khoa học hàng đầu. Họ nắm quyền về việc cấp bằng sáng chế liên quan
đến khoa học kỹ thuật trên toàn thế giới cho bất cứ nhà khoa học nào muốn được
công nhận tác quyền và được cấp bằng sáng chế khi họ có một phát minh mới lạ
Trong khi đó, chỉ có khoảng một triệu người Mỹ gốc Việt thôi mà chúng ta đă có
200 khoa học gia trong số 2000 nhà khoa học thượng thặng này của Mỹ. Đó quả là
một điều đáng nể và đáng kính phục.
Người Việt ta là người đầu tiên trên thế giới đă chế ra loại súng bắn hỏa tiễn.
Từ đầu thế kỷ thứ 15, Hồ Quí Ly và Lê Trừng (con Quư Ly) đă biết cách chế súng
bắn hỏa tiễn. Nước Tàu phải học hỏi cách chế súng bắn hỏa tiễn của nước ta. Sau
này các nước Tây phương mới học lại cách chế súng hỏa tiễn của người Tàu. Đây cả
là một niềm hănh diện lớn lao cho dân tộc Việt chúng ta.
C̣n biết bao truyền thống tốt đẹp của ta nữa, kể sao cho xiết. Có hiểu được như
thế, chúng ta mới cảm thấy hănh điện được là con cháu Tiên Rồng.
Chúng ta hăy cùng nhau cầu Quốc Tổ phù hộ cho người Việt ở trong nước cũng như ở
hải ngoại duy tŕ và phát triển được những truyền thống tốt đẹp của tổ tiên để
làm vẻ vang ṇi giống và có sức mạnh
cùng khôn ngoan hầu loại trừ quân xâm lăng Cộng Sản để đem tự do dân chủ và nhân
quyền thực sự về toàn dân Việt.
9. Truyền Thống Hiếu Thảo của Người Việt
Theo phong tục Việt Nam, sự hiếu thảo và nhớ ơn được coi là một truyền thống cao
cả nhất. Hiếu thảo được thể hiện trong việc ân cần, tŕu mến, tôn kính, vâng
lời, và biết ơn cha mẹ. Tôn kính cha mẹ là phải giữ lễ phép với cha mẹ từ cách
ăn nói đến việc đứng ngồi, nhất nhất đều phải giữ ǵn ư tứ và không được làm
điều ǵ mất ḷng và trái ư cha mẹ. Khi đă kính yêu cha mẹ, người con tất nhiên
biết ơn cha mẹ. Sự biết ơn cha mẹ được bày tỏ trong việc phụng dưỡng và sáng
viếng tối thăm (thần hôn định tỉnh).
Nhớ ơn thân nhân và tha nhân, người ta thường thăm viếng và biếu quà trong các
dịp lễ tết.
Nhớ ơn người quá cố được thể hiện trong việc giỗ tổ tiên, ông bà, và cha mẹ.
Nhớ ơn thần thánh trời Phật được biểu lộ qua việc xây chùa lập đền tế lễ tạ ơn
và tổ chức hội hè đ́nh đám.
Nhớ ơn các đấng anh hùng liệt nữ và những vị có công với đất nước được cụ thể
hóa bằng cách lập đền miếu để thờ và đúc tượng hay dựng đài kỷ niệm để ghi ơn.
Điểm đặc biệt về truyền thống hiếu thảo của Việt Nam là nhớ ơn người quá cố bằng
cách cúng giỗ và thiết lập từ đường, nhà thờ, chùa chiền, đ́nh, đền, hay miếu để
thờ, tế lễ, và mở hội với mục đích tạ ơn hay kỷ niệm ngày thần húy (ngày thần
hóa hay mất) và ngày thần đản (ngày thần giáng sinh) của các vị anh hùng có công
với đất nước. Người Âu Mỹ không có phong tục này.
a. Truyền Thống Hiếu Thảo Của Người Việt Nam
Người Việt Nam rất trọng sự hiếu thảo và đặt hiếu thảo lên hàng đầu của trăm nết
tốt (bách hạnh). Chính v́ thế mà người xưa đă nói: Nhân sinh bách hạnh hiếu vi
tiên.
V́ thiên tính, bậc cha mẹ nào cũng biết yêu thương, nuôi nấng, và dạy bảo con
cái hết ḷng mà không cần phải học mới biết. Nhưng con cái cần phải được giáo
dục mới hiểu công ơn cha mẹ và bổn phận làm con. Người Bắc Mỹ cũng có hiếu với
cha mẹ, nhưng đa số có vẻ coi nhẹ chữ hiếu v́ họ không được dạy bổn phận phải
phụng dưỡng và nuôi nấng cha mẹ khi già yếu. Nếu cha mẹ già yếu họ đưa quư cụ
vào viện dưỡng lăo và phú mặc cho nhà nước nuôi.
Chúng ta có được truyền thống tốt đẹp về hiếu thảo là do các nhà giáo dục chân
chính ở Việt Nam trước kia đă đưa vào chương tŕnh học đường môn luân lư giáo
dục. Những ai có học và được giáo dục phần lớn đều biết hiếu thảo.
Trong cuốn Nho Giáo, quyển thượng, Trần Trọng Kim đă viết về cách giáo dục con
người như sau: "trước hết dùng Thi Thư mà dạy, lấy hiếu đễ mà giáo dưỡng người,
lấy nhân nghĩa mà giảng giải, lấy lễ nhạc giúp người quan sát sự vật, và sau
cùng mới lấy văn lấy đức để giáo dục con người cho hoàn hảo." Thi Thư là tên hai
bộ sách của Khổng Tử gồm Kinh Thi và Kinh Thư. Kinh Thi gồm các bài ca dao có
tác dụng di dưỡng tính t́nh và mở mang trí thức con người. Kinh Thư có nội dung
giúp hậu thế hiểu được tư tưởng cổ nhân về đạo lư, chế độ, phép tắc, và sự tiến
hóa của dân tộc Trung Hoa từ đời nọ tới đời kia. Lễ Nhạc là tên hai bộ sách của
Khổng Tử gồm Kinh Lễ và Kinh Nhạc. Kinh Lễ là bộ sách chép về lễ nghi với mục
đích dạy người ta nuôi dưỡng t́nh cảm, tiết chế được cảm xúc, cũng như giữ được
trật tự trong gia đ́nh và ngoài xă hội. Kinh Nhạc là bộ sách viết về âm nhạc
nhằm mục đích dùng âm nhạc để giáo dục con người.
Trong đạo hiếu, chữ lễ lại giữ phần tối ư quan trọng. Phụng dưỡng cha mẹ mà
không đúng lễ th́ không phải là người con có hiếu.
Chữ lễ bao gồm từ h́nh thức nghiêm trang đến tấm ḷng thành ái, từ t́nh cảm
thuần hậu đến dũng cảm đúng khuôn phép, từ sự phải trái đến trên dưới có trật tự
phân minh, và từ việc tiết chế thất t́nh của con người như vui mừng (hỉ), tức
giận (nộ), thương xót (ai), sợ hăi (cụ), yêu thương (ái), ghét bỏ (ố), và ham
muốn (dục) đến việc làm thăng hoa đức ḥa thuận nhường nhịn và loại trừ sự tranh
quyền đoạt lợi một cách bất chính. V́ thế cho nên các nhà giáo dục xưa chủ
trương tiên học lễ hậu học văn. Lễ có cái lợi là ngăn ngừa được việc xấu lúc nó
chưa xảy ra. V́ thế các nhà chính trị giỏi thời xưa họ lấy lễ để cai trị dân hơn
là dùng pháp luật v́ pháp luật chỉ dùng để trừng trị những kẻ đă mắc phải tội
lỗi.
Các trường học Bắc Mỹ không có môn luân lư giáo dục và cũng không chủ trương
tiên học lễ hậu học văn trong chương tŕnh giáo dục của họ. Mục đích giáo dục
của họ là tạo con người thực dụng và giúp con người kiếm được việc làm ngay khi
ra trường. Việc làm là trên hết, không cần phải học cao hiểu rộng, miễn sao có
việc làm là được. Việc làm, tiền, và quyền lợi quyết định tất cả hành động của
họ. Khi chỉ chú trọng vào điều lợi mà thiếu lễ th́ con người sẽ trở nên u mê và
dễ dàng làm bậy. Chính v́ thế mà xă hội của họ có rất nhiều tội phạm.
Trong những cuộc tranh tài về thể thao hay bất cứ cuộc tranh tài nào khác, Người
Bắc Mỹ đều coi sự thắng là tất cả. Mọi phương tiện chỉ để tạo mục đích thắng mà
thôi. Tinh thần thượng vơ hầu như lui vào bóng tối, nhất là trong môn khúc côn
cầu trên băng (hockey game) và banh húc (football game). Các cầu thủ húc nhau,
đánh nhau, và chơi xấu một cách rất tàn nhẫn với mục đích để hạ đối phương cho
bằng được mà không cần tới tinh thần thượng vơ. Lư do chính của sự kiện này là
thiếu lễ.
V́ nhà trường không đề cao chữ lễ và không có môn luân lư giáo dục nên hiện nay
người Bắc Mỹ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề dạy bảo con em. V́ thấy nguy cơ
đă gần kề, chính quyền, nhà trường, và phụ huynh đang cộng tác nghiên cứu để t́m
ra phương pháp cải tiến việc giáo dục con em cho tốt đẹp hơn.
Về mặt luân lư, giáo dục của Việt Nam ta trước đây thật là tuyệt vời. Nhờ thế mà
con em chúng ta đă được tiếng là giỏi và ngoan trong bao thế hệ học sinh đă qua.
Biết bao các em đă làm vẻ vang dân Việt. Sở dĩ được như thế là do người Việt ta
có nền tảng vững vàng về hiếu thảo. Người xưa đă quả quyết rằng hiếu thảo là cỗi
rễ của mọi nết ăn ở trên đời: ḷng hiếu thảo thấu đến trời th́ mưa gió thuận
mùa, ḷng hiếu thảo thấu đến đất th́ muôn việc ḥa thạnh, ḷng hiếu thấu đến
người th́ mọi phước đều tuôn đến cho ḿnh. Kẻ nào không có hiếu th́ không những
không giúp ích ǵ cho xă hội được mà c̣n là loại sâu dân mọt nước. Lư do rất
giản dị và dễ hiểu là cha mẹ anh em ruột thịt của họ mà họ không phụng dưỡng săn
sóc th́ họ c̣n thương và giúp ích ai được.
Những người con có hiếu và biết ơn cha mẹ, phần lớn đều giỏi và làm những điều
ích lợi cho gia đ́nh cùng xă hội bởi v́ người có hiếu tức là người có ḷng nhân.
Chính v́ thế mà thầy cô đă chú tâm dạy trẻ về khía cạnh biết ơn cha mẹ một cách
rất kỹ càng.
Chúng ta hăy cùng nhau đọc các đoạn văn sau đây được trích ra từ cuốn Luân Lư
Giáo Khoa Thư để biết nhà trường của ta trước đây đă đặt nặng việc giáo dục trẻ
em về bổn phận làm con và việc biết ơn cha mẹ như thế nào:
Bổn Phận Làm Con
Kể từ khi con mới sinh ra cho đến khi khôn lớn, cha mẹ phải nuôi nấng công
tŕnh, kể biết là bao! Mẹ th́ nuôi con, bồng bế nâng niu, phải chịu nhiều điều
cực khổ. Cha th́ đi làm lụng vất vả để lo cho con được no ấm. Cha mẹ lại dạy bảo
con và cho con đi học để mở mang trí tuệ. Vậy bổn phận con là phải thờ cha mẹ
cho trọn chữ hiếu.
Biết Ơn Cha Mẹ
Phàm người nào đă biết kính yêu cha mẹ tất là biết ơn cha mẹ. Cha mẹ ḿnh sinh
ra ḿnh, nuôi dưỡng ḿnh, khó nhọc biết bao nhiêu, lại lo cho ḿnh nên người tử
tế, th́ công đức ấy kể sao cho xiết được. Vậy kẻ làm con phải dốc ḷng báo ơn
cha mẹ. Lúc nhỏ, th́ sự biết ơn chỉ cốt ở cách vâng lời và ḷng yêu mến. Nhưng
khi lớn lên, cha mẹ già cả th́ phải biết hết ḷng phụng dưỡng: sớm thăm, tối
hỏi, cơm ngon, canh ngọt, quạt nồng, ấp lạnh. Chỉ có những quân vô học đê hạ như
loài vật th́ mới quên ơn cha mẹ.
Nhớ ơn cha mẹ th́ phải nuôi cha mẹ khi các người về già. Nuôi cha mẹ không thôi
cũng chưa hẳn là có hiếu. Sự kính cha mẹ và sự ḥa ái trong khi phụng dưỡng cha
mẹ mới là điều chủ yếu. Giữ sự kính ái cả lúc thường cũng như lúc bất thường.
Nếu cha mẹ có làm điều ǵ lầm lỗi, con cái phải t́m cách êm dẹp dịu ngọt mà can
ngăn. Nếu cha mẹ không nghe th́ ḿnh vẫn phải giữ lễ và phụng dưỡng sao cho đúng
lễ. Nếu phải chịu điều ǵ đau đớn, vất vả, oan ức, hay thiệt tḥi cũng không
được oán hận mà bỏ mặc hay không chăm nom cha mẹ. Công ơn cha mẹ đă được bao đời
công nhận trong các câu ca dao sau: Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, / Con nuôi mẹ
con kể từng ngày./ Công cha như núi Thái Sơn,/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra,/ Một ḷng thờ mẹ kính cha, / Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con.
Ngày xưa các cụ quan niệm rằng hiểu thảo là bổn phận chính của người con trai,
nhất là con trai trưởng. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên, Nguyễn Đ́nh Chiểu đă viết
ở phần đầu cuốn truyện mà chúng tôi c̣n nhớ được như sau: Trai thời trung hiếu
làm đầu, gái thời tiết hạnh là câu sửa ḿnh (câu 5-6).
Người con trai là rường cột trong gia đ́nh sau khi cha mất. Trong khi đó con gái
được các cụ coi là nữ nhân ngoại tôỉc. Ca dao ta có câu: Con gái là con người
ta, con dâu mới thật mẹ cha mua về.
Muốn làm tṛn chữ hiếu, khi cha mẹ c̣n sống, ta phải hết ḷng nuôi dưỡng; khi
cha mẹ mất, ta phải hết ḷng thương tiếc. Cha mẹ c̣n sống ngày nào ta nên mừng
ngày đó và ăn ở sao cho trọn đạo làm con, chớ để đến khi cha mẹ mất rồi mới hối
th́ không kịp. Người ta quan niệm rằng làm con mà có cha mẹ ở bên để báo đáp là
điều sung sướng nhất đời. Phải có duyên có phúc mới được như vậy.
Việc hiếu thảo tuy vậy mà rất phức tạp. Những điều người con tưởng là có hiếu
nhưng thực ra lại là bất hiếu. Có khi chính cha mẹ tạo hoàn cảnh cho các con làm
điều bất hiếu mà không biết. Chính v́ vậy người ta mới phân biệt ra minh hiếu và
ngu hiếu.
Khi thấy cha mẹ làm điều ǵ trái, ta phải liệu đường can ngăn một cách có lễ độ
và khi thấy cha mẹ nóng giận muốn đánh đập ta, ta phải liệu đường trốn tránh và
đợi cho đến khi cha mẹ nguôi giận mới giải thích hay xin lỗi cha mẹ th́ đó mới
là minh hiếu.
Nếu ta chiều theo cha mẹ để về hùa cùng cha mẹ làm điều phi pháp và nếu ta chiều
cơn giận của cha mẹ để cho cha mẹ đánh ta đến bị thương tích và có thể nguy đến
tính mạng, đó là ngu hiếu. Trong trường hợp này, ta đă làm hại cha mẹ v́ để cha
mẹ mang tiếng bất từ và cha mẹ ta c̣n có thể bị vô phúc đáo tụng đ́nh. Ngoài ra,
ta cũng hại chính bản thân ta nữa.
Hiện thời dân Việt đang gặp đại nạn Việt Cộng nên đạo hiếu thảo của người Việt
bị bọn Quỉ Đỏ ở trong nước phá hoại đến tận cỗi rễ.
Đạo hiếu thảo người Việt hải ngoại cũng bị "văn minh vật chất nước người, làm mờ
hiếu thảo làm vơi nghĩa t́nh." (Thơ Khải Chính)
b. T́nh Trạng Hiếu Thảo Của Người Việt Hải Ngoại Hiện Nay
Khi đến định cư ở Bắc Mỹ, thấy chính phủ của họ có chương tŕnh trợ cấp xă hội
và trợ cấp tuổi già, một số các đấng con cái dù là dư tiền nuôi cha mẹ, dù là kỹ
sư, bác sĩ, và dược sĩ, cũng vẫn t́m cách này cách khác đẩy các cụ đi xin tiền
trợ cấp xă hội. Đây là sự thạât mà chúng tôi đă chứng kiến. Mặt khác, thấy tiền
trợ cấp xă hội dễ xin trong khi nhờ các con lại khó khăn, các cụ cũng tự t́m
cách đi xin tiền xă hội thay v́ nhờ con.
Ngoài ra, chính phủ ở đây lại quá dễ dăi về vấn đề trợ cấp xă hội, nên có một số
người cho rằng tổ chức xă hội ở Bắc Mỹ đă đồng lơa với tội ác trong việc làm cho
con cái bất hiếu. Khi c̣n vị thành niên, một số con cái không vâng lời cha mẹ,
bỏ nhà ra ở riêng v́ trông cậy vào tiền trợ cấp xă hội. Khi lớn lên, lại v́ tự
do, v́ quyền lợi cá nhân, một số đông con cái đă phó thác cha mẹ ḿnh cho chính
phủ nuôi.
c. T́nh Trạng Hiếu Thảo Của Người Việt Trong Nước Hiện Nay
Từ ngày Quỉ Đỏ xuất hiện ở Việt Nam, đầu tiên ở ngoài Bắc, sau ở toàn cơi, người
dân học được cái thói bất hiếu của Trường Chinh Đặng Xuân Khu và bè lũ giặc Hồ
ly tinh nên các bậc cha mẹ của họ thật khốn khổ. Ca dao ta mới có câu: Ai sinh
thằng Khủ thằng Khu, tố chết thằng bác, bỏ từ thằng cha.
Các đấng cha mẹ bị một cổ hai tṛng. Con cái nhiễm thói ăn cắp lừa đảo bất nhân
của bọn Cộng Sản nên sinh ra bất hiếu với cha mẹ.
Bọn Cộng Sản là bọn cướp của và bóc lột toàn dân nên những người dân sống dưới
chế độ Cộng Sản đều phải có thủ đoạn gian manh mới sống nổi. Họ phải dối trá và
lường gạt để sống c̣n. Chính v́ vậy mà những người sống dưới chế độ Cộng Sản
Miền Bắc từ năm 1954 đến nay không bao giờ biết nói tiếng "cám ơn" với ai v́ có
ai ở Miền Bắc làm ơn cho họ đâu. Sống lâu với bọn Cộng Sản, họ đă nhiễm tính dối
trá và lường gạt của bọn Cộng Sản cho nên khi vào Miền Nam họ không thể tưởng
tượng là dân Miền Nam trước đó đă có cuộc sống văn minh, tự do, dân chủ, nhân
quyền, và no ấm đến như thế. Dân Miền Nam có cho họ cái ǵ họ cũng không hề biết
nói tiếng cám ơn. Điều này chứng minh là chế độ Cộng Sản đă phá hủy đến tận cỗi
rễ truyền thống biết ơn tốt đẹp của dân ta.
Các bậc cha mẹ bị đảng Cộng Sản, một tổ chức vô nhân tính, bóc lộc nên đă khốn
khổ lại càng khốn đốn thêm. Tất cả con em đều bị bọn Cộng Sản tách ra khỏi ảnh
hưởng của gia đ́nh để dụ dỗ chúng theo dơi các hành động của cha mẹ chúng hầu
báo cáo cho lũ công an để được tuyên dương là "cháu ngoan" Hồ tặc. Cảnh luân
thường đạo lư bị đảo lộn thật là đau ḷng! Tuy nhiên, với niềm tin vào truyền
thống hiếu thảo lâu đời, người Việt chúng ta vẫn có dư nội công thâm hậu để phục
hồi đạo hiếu thảo bằng cách loại trừ loài Quỉ Đỏ ở trong nước và thiết lập giềng
mối chung ở hải ngoại để xây dựng cộng đồng người Việt chúng ta vững mạnh về mọi
mặt.
Ở đâu và ở thời nào, hiếu thảo bao giờ cũng là rường cột của mọi nết ăn ở trên
đời. Con người ta nếu có hiếu thảo với cha mẹ ông bà th́ thường cũng biết nhớ ơn
tiền nhân và có ḷng cứu dân giúp nước. Kẻ bất hiếu th́ dù nhất thời có khá giả,
nhưng sau cùng cũng là loài vô dụng và sâu dân mọt nước.
Truyền thống hiếu thảo thường đi đôi với truyền thống biết ơn. Chúng ta hăy cùng
nhau t́m hiểu truyền thống biết ơn này để từ đó có thể giúp nhau duy tŕ và phát
triển sự biết ơn trong cuộc sống mới cho tốt đẹp hơn.
d. Truyền Thống Biết Ơn Của Người Việt
Sự biết ơn của người Việt Nam thường không được bày tỏ một cách lộ liễu như
người Bắc Mỹ. Nó không ở đầu môi chót lưỡi mà ở tấm ḷng và hành động. Chẳng hạn
như có ai giúp ta cái ǵ ta không t́m cách trả ơn ngay tức khắc mà đợi có dịp
nào đó mới đền ơn một cách kín đáo và tế nhị. Có giúp đỡ ai, dân ḿnh cũng giúp
một cách kín đáo và khéo léo. Người Bắc Mỹ th́ không, chẳng hạn như ta cho họ đi
nhờ xe, khi xuống xe họ trả lại ngay ta một đô la tiền xăng. Thế là họ yên ḷng.
Dân Việt vốn là dân có truyền thống nhớ ơn từ lâu đời, chẳng hạn như ta thấy có
nhiều nơi thờ những bậc có công to với dân với đất nước như Trưng Nữ Vương, Trần
Hưng Đạo, và Phù Đổng Thiên Vương, v.v.
Người ta c̣n nhớ ơn và thờ những vị đă tạo ra một nghề như nghề sơn, nghề khảm,
nghề đúc, nghề mộc, v.v., và tôn những vị sáng tạo ra nghề này làm Thánh Sư, Tổ
Sư, hay Tiên Sư. Người ta dựng đền hay miếu để thờ các vị này. Hàng năm dân làng
tổ chức tế lễ hai lần gọi là xuân thu nhị kỳ, tức là tế vào tháng hai thuộc mùa
xuân và vào tháng tám thuộc mùa thu. Dân làng c̣n ăn mừng khi được mùa. Mỗi lần
trời cho ḥa cốc phong đăng, tức là được mùa, th́ dân chúng lại mở đại hội,
thường là vào tháng hai mỗi năm, để ăn mừng và tế lễ tạ ơn trời phật.
Trong các ngày lễ tết, dân ta thường có lệ đi tết, tức là biếu quà trong dịp
tết, để tạ ơn và thắt chặt t́nh gia đ́nh, nghĩa thầy tṛ, và mối thân thiện giữa
bằng hữu. Con cháu th́ đi tết cha mẹ, ông bà, cô, d́, chú, bác, v.v. Học tṛ đi
tết thầy cô. Những người thọ ơn đi tết ân nhân của ḿnh. Ngoài việc đi tết,
người ta c̣n đi lễ chùa, đền, miếu để tạ ơn trời Phật và thánh thần đă ban phước
lành cho họ.
Việc tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt được coi là rất quan trọng. Học tṛ nhớ
ơn thầy được thể hiện trong câu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Điều này có nghĩa
là hễ ai dậy ta một chữ hay nửa chữ cũng là thầy của ta. Ca dao ta c̣n có câu:
Không thầy đố mày làm nên. Việc nhớ ơn thầy và tầm quan trọng của sự giáo huấn
đă làm người ta đưa địa vị ông thầy (sư) lên trên địa vị của cha (phụ) trong thứ
tự: quân, sư, phụ. Bổn phận đối với thầy và việc nhớ ơn thầy đă được coi là định
luật không thể thay đổi trong xă hội Việt Nam. Nhớ ơn thầy bằng cách thăm nom
săn sóc và giúp đỡ thầy. Trong các ngày lễ tết, học tṛ dù đang học hay đă thôi
thọc đều nhớ mua quà đến tết thầy. Bổn phận đối với thầy trong khi học và sau
khi thôi học cũng được người Việt ta tôn trọng và coi là một bổn phận thiêng
liêng. Chúng ta hăy cùng nhau đọc lại hai bài học về bổn phận đối với thầy ở
trong cuốn Luân Lư Giáo Khoa Thư. Hai bài này trước đây đă được đem vào chương
tŕnh giáo dục ở Lớp Sơ Đẳng từ năm 1941.
Bổn Phận Ở Với Thầy Lúc Đang Học
Thầy là người thay cha mẹ ḿnh để dạy bảo ḿnh. Luân lư ta lấy quân, sư, phụ làm
trọng hơn cả. Người học tṛ tốt phải biết ơn thầy, phải tôn kính thầy, phải yêu
mến thầy, và phải vâng lời thầy.
Bổn Phận Ở Với Thầy Lúc Thôi Học Rồi
Lúc thôi học rồi, cũng như lúc c̣n học, bao giờ ta cũng phải yêu kính thầy và
biết ơn thầy. Ta phải năng lui tới thăm nom (viếng), lỡ khi thầy đau yếu hay gặp
hoạn nạn, ta phải săn sóc giúp đỡ. Ta đừng bắt chước những quân vô hạnh làm nên
chút danh phận ǵ, gặp thầy cũ, lờ đi như không biết, lấy sự phải chào hỏi thầy
làm xấu hổ. Như thế là vong ân bội nghĩa rất đáng khinh bỉ.
Chính nhờ có ḷng biết ơn và kính trọng thầy nên việc giáo dục của Việt Nam
trước đây mới dễ dàng và thành công mỹ măn đến như thế.
Người Việt ta c̣n có thói quen trong cuộc sống hàng ngày về việc nhớ ơn. Vào các
ngày tết, bất cứ tết ǵ, theo phong tục Việt, gia đ́nh nào cũng làm mâm cơm cúng
tổ tiên, ông bà, và cha mẹ khi các người đă qua đời. Ngoài ra, khi đến mùa hoa
quả hay thấy của ngon vật lạ, người ta thường mua về để cúng gia tiên trước rồi
mới ăn. Đây là cách kính trọng và nhớ ơn ông bà tổ tiên đă thành nếp của dân tộc
Việt.
Từ việc cúng cơm người quá cố đến việc để tang, giỗ tết, tế lễ, đốt vàng mă, và
cúng lễ trong ngày rằm tháng bảy âm lịch, Lễ Vu Lan, tức là ngày xá tội vong
nhân mà ngày nay người ta gọi là mùa báo hiếu, v.v., hết thẩy đều thể hiện tấm
ḷng thành và nhớ ơn tiền nhân. Ư nghĩa đó được gói ghém trong các câu tục ngữ :
Uống nước phải nhớ đến nguồn, / Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, / Uống nước nhớ kẻ đào
giếng.
Ngoài ra, việc xưng hô trong tiếng Việt cũng phản ảnh tấm ḷng hiếu thảo, biết
ơn, và tôn ti trật tự trong gia đ́nh cũng như ở ngoài xă hội. Việc thưa gửi, đi
thưa về tŕnh, và gọi dạ bảo vâng trong phong tục của người Việt chúng ta lại
càng tế nhị và văn minh, nhất là trong vấn đề kính trọng, nhớ ơn, và hiếu thảo.
Phải có nền văn hóa lâu đời người ta mới đạt đến tŕnh độ xưng hô, kính trọng,
nhớ ơn, và hiếu thảo đến như vậy.
Truyền thống hiếu thảo và biết ơn của người Việt chúng ta đă có nền tảng từ lâu
đời, gần 5 ngàn năm trước. Người Hoa Kỳ mới có văn hóa riêng cho Hợp Chủng Quốc
kể từ năm 1776, tức là cách đây (2004) 228 năm nay. Người Canada mới được độc
lập từ năm 1867, tức là cách đây (2004) 137 năm mà thôi. Chính v́ thế mà nếp
sống và văn hóa của họ c̣n phôi thai, đang trên đà củng cổ để thành nề nếp. Họ
không có nền tảng gia đ́nh vững vàng như dân Việt ta. Chính phủ của họ phải đứng
ra lo cho người già.V́ thế mà ḷng hiếu thảo của con cái không có chỗ đứng. Theo
văn hóa của Bắc Mỹ, ta có thể nói trẻ cậy cha mẹ và chính phủ, già th́ chỉ trông
cậy vào chính phủ không mà thôi.
Ở Việt Nam ta, trước 1975, các chính phủ Quốc Gia không để ư đến vấn đề người
già mấy, không có chương tŕnh trợ cấp tiền già như ở Bắc Mỹ này v́ con cái và
gia đ́nh đều tự lo cho cha mẹ và ông bà. Sự hợp lư và công bằng từ nền tảng gia
đ́nh Việt Nam về việc cha mẹ và con cái giúp đỡ nhau đă được chứng minh trong
câu tục ngữ: Trẻ cậy cha già cậy con.
Trên đây chúng tôi đă so sánh một vài khía cạnh giữa sự hiếu thảo và biết ơn của
người Việt và người Bắc Mỹ. Để hiểu rơ hơn sự hiếu thảo và biết ơn của ngưới Bắc
Mỹ, chúng ta cần phải đi sâu vào một số vấn đền cụ thể dưới đây.
II. Kết Luận
Truyền thống siêu việt gần năm ngàn năm, 4883 (2004+2879), của dân tộc Việt
ở vào hạng nhất trên thế giới. Ta phải cố gắng duy tŕ truyền thống này để giáo
dục con em hầu giải thể chế độ Cộng sản và xây dựng đất nước cùng giúp dân được
hưởng tự do dân chủ và nhân quyền muôn đời.