Giở lại những trang sử chiến đấu dũng mănh và hào hùng của Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa, nhân tưởng niệm ngày 30-04, là ngày nước Việt Nam Cộng Ḥa thôi tồn
tại, chúng tôi muốn kể lại cho các bạn trẻ Việt Nam công nghiệp chiến đấu và
những giây phút chói chang cuối cùng của những vị thần tướng làm rạng danh
nước Nam trên trường quốc tế: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa
Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng
Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ.
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam là hậu duệ của ḍng họ Nguyễn
Khoa danh tiếng ở đất Thần Kinh Huế mà các cụ tổ từ đời này sang đời nối tiếp
đều có công trạng giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cơi về phương Nam, mà điểm dừng
là mũi Cà Mau.
Được hun đúc từ truyền thống ấy, Thiếu Tướng Nam thuở c̣n ở tuổi học sinh
siêng năng chăm học, rất hiếu thảo với cha mẹ, ông thường nghiền ngẫm kinh
Phật, sách triết học và Nho học. Người cũng rất say mê hội họa, âm nhạc và
giỏi về nhạc lư. Sau này khi đă trở thành vị tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh
và rồi lên Tư Lệnh Quân Đoàn IV Quân Khu IV người nổi tiếng là vị tướng từ ái,
thương lính yêu dân, rất được quân và dân Miền Tây kính trọng và yêu thương.
Mỗi lần Thiếu Tướng Nam bay đến các tiểu khu (tỉnh) hay các đơn vị chiến
trường nào, ông cũng đều không muốn làm phiền thuộc cấp v́ chuyện ăn uống. Lắm
lúc ông chỉ cần vài trái bắp luộc là đă xong cho một bữa trưa. Nếu ở Bộ Tư
Lệnh th́ người luôn luôn xuống Câu Lạc Bộ cùng dùng cơm với các sĩ quan, có ǵ
ăn nấy.
Là một Phật tử thuần thành, Thiếu Tướng Nam ăn chay 15 ngày mỗi tháng, cố gắng
tôn trọng những giới cấm, tránh sát giới nhưng vẫn chu toàn bổn phận của một
người lính chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Bà con thân hữu đến thăm ông th́ được,
nhưng để xin ân huệ hay nhờ vả đều nhận được sự từ chối thẳng thắn. Cuộc sống
của người quá giản dị, không vợ con, không nhu cầu vật chất xa hoa, không ǵ
hết, đơn giản đến mức trở thành huyền thoại.
Tướng Dương Văn Minh, người được Quốc Hội Việt Nam Cộng Ḥa bỏ phiếu đa số
chấp thuận lên nắm quyến Tổng Thống vỏn vẹn mới có ba ngày đă vội vă ra lệnh
toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa buông súng thôi chiến đấu từ 10 giờ sáng ngày
30.04.1975.
Dưới Quân Khu IV (Miền Tây) các tướng lănh của quân ta nào đâu chịu đầu hàng
một cách nhục nhă như vậy. Đại cuộc không thành, thành mất th́ tướng phải tuẫn
tiết theo thành. Thiếu Tướng Nam lên xe đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần
Thơ thăm những chiến hữu thương binh của người lần cuối cùng. Mối thương cảm
vận nước đến hồi đen tối, chiến hữu găy súng và thương phế binh chắc chắn sẽ
bị quân địch tàn nhẫn đuổi ra nằm lê la trên hè phố bụi đất với những vết
thương c̣n lở lói và rướm máu, đă làm cho đôi mắt của người sưng húp lên. Đến
tối Thiếu Tướng Nam quay trở về dinh Tư Lệnh nằm bên bờ con sông Cái Khế và
nhận được tin Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó quân Khu IV đă nổ súng tuẫn
tiết trong văn pḥng tại trại Lê Lợi. Đến nửa đêm, Thiếu
Tướng Nam trân trọng vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với
ngù vai, dây biểu chương, huy chương các loại gắn trên ngực áo, nghiêm chỉnh
ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế sau bàn Tư Lệnh. Rồi người đưa khẩu Browning lên
bắn vào màng tang, đầu người gục xuống về phía trái.
Ngày hôm sau, các sĩ quan c̣n ở lại Bộ Tư Lệnh đă đứng nghiêm chào người anh
hùng rồi an táng thi thể người trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ.
Trong đầu năm 1994, thân nhân của Thiếu Tướng Nam đă xuống Cần Thơ bốc mộ, hỏa
thiêu và mang tro cốt đem về thờ trong chùa Gia Lâm trên đường Lê Quang Định,
quận G̣ Vấp, Sài G̣n.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV; Quân Khu
IV đă tự sát trong văn pḥng Tư Lệnh Phó tại Trại Lê Lợi nằm trên đường Ḥa
Bỉnh, Cần Thơ, trước Thiếu Tướng Nam vài tiếng đồng hồ.
Tên tuổi của Chuẩn Tướng Hưng được biết đến từ khi ông c̣n là một sĩ quan
chiến đấu trên chiến trường Miền Tây và được xưng tụng là một trong những con
mănh hổ dũng cảm nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Từ chức vụ Đại Tá Trung
Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh, ông được điều động lên
Quân Khu III làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh và được vinh thăng Chuẩn Tướng chỉ
vài tháng trước khi chiến trận Mùa Hè Đỏ Lửa nổ lớn tại An Lộc trong năm 1972.
Định mệnh đă chọn Chuẩn Tướng Hưng làm người tử thủ An
Lộc và đánh thắng đến bốn sư đoàn địch, vang danh quân sử Việt Nam và chiến sử
thế giới.
H́nh ảnh dũng cảm và quen thuộc mà chiến sĩ tử thủ An Lộc ngưỡng mộ người Tư
Lệnh của họ, là chiến sĩ Lê Văn Hưng đầu đội nón sắt, quần lính, áo thun màu ô
liu, tay xách cây M16 như bất cứ một người lính khinh binh nào, làm việc 24/24
giờ một ngày bên chiếc đèn vàng mù mờ ánh sáng, hay ra chiến hào khích lệ tinh
thần binh sĩ và tỉ mỉ giảng giải cách sử dụng súng chống chiến xa M72 để bắn
xe tăng địch.
Dưới sự chăm sóc và chỉ huy của Thiếu Tướng Nam và Chuẩn Tướng Hưng, Quân Đoàn
IV gồm các Sư Đoàn 7, 9 và 21 Bộ Binh đă đem lại những ngày an b́nh cho người
dân Miền Tây. Hai vị Tướng đă là một cặp chiến binh kiệt xuất tạo nên bức
tường thành vững chắc cho Quân Khu IV. Cho đến cái ngày oan nghiệt 30.04.1975,
hai vị Tướng nhiều lần nhận được lời đề nghị khẩn thiết
của người Mỹ muốn giúp hai vị và gia đ́nh di tản sang Hoa Kỳ, nhưng cả hai vị
Tướng đă khẳng khái từ chối.
Cho đến 4 giờ chiều cùng ngày, hai vị Thiếu Tướng c̣n cố liên lạc với các đơn
vị hỏi xem có nhận được lệnh hành quân và phóng đồ bố trí chiến đấu chưa. Tất
cả đều trả lời không. Hóa ra viên đại tá được giao trọng trách chuyển lệnh đă
bỏ trốn mất. Hai vị Tướng tức uất thở than cho vận nước. Danh từ đầu hàng từ
đầu cho đến tàn cuộc chiến rất xa lạ với người chiến sĩ QLVNCH.
Chuẩn Tướng Hưng vẫn với bộ quân phục tác chiến bộ binh màu ô liu trở lại văn
pḥng Tư Lệnh Phó gặp lại vợ con nói lời vĩnh biệt và ân cần khuyên nhủ Chuẩn
Tướng phu nhân gắng cắn răng sống nuôi con, dạy dỗ con nên người, nói cho
chúng biết về người cha đă chết như thế nào cho tổ quốc. Người cũng trân trọng
từ biệt các chiến hữu:
“Tôi không bỏ các anh để đưa vợ con ra ngoại quốc.
Tôi cũng không thể chịu nhục đầu hàng. Các anh đă từng cộng tác với tôi, những
lúc các anh lầm lỗi tôi có rầy la. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm
nếu có.”
Những người lính ôm lấy lá cờ vàng và cây súng thân
thương vào ḷng khóc nức nở. Họ biết giây phút vĩnh biệt người chủ tướng đă
điểm. Chuẩn Tướng Hưng cố xô đẩy đuổi mọi người ra ngoài, b́nh thản đóng kín
cửa văn pḥng lại. Có tiếng súng nổ chát chúa từ bên trong vọng ra. Bà Hưng và
các chiến hữu phá cửa xông vào. Chuẩn Tướng Hưng nằm ngă người tựa vào giường
nửa trên nửa dưới, hai cánh tay dang ra và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng
cơn, đôi mắt c̣n mở to uất hờn. Người đă bắn vào tim để tỏ rơ tiết tháo một
người Tướng lănh của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Máu từ trong tim người thấm
ướt mảng áo ngực và loang ra đỏ thắm tấm drap trắng. Thời điểm người anh hùng
thăng thiên đúng 8 giờ 45 tối ngày 30.04.1975.
Khoảng 11 giờ khuya, Thiếu Tướng Nam gọi điện qua chia buồn. Bà Thiếu Tướng
Hưng nghe rơ tiếng thở dài của người Tư Lệnh phía bên kia đầu dây.
Trong cái ngày đau buồn ấy, tại bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài G̣n, người ta
đưa vào thi hài của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân
Đoàn II; Quân Khu II, một chiến binh mà các cấp bậc đi lên đều được trao gắn
vinh thăng tại mặt trận. Thiếu Tướng Phú đă uống thuốc
độc chết cùng với vận nước.
Từ cái ngày người bị trọng thương và sa vào tay giặc ở Điện Biên Phủ tháng
05.1954, rồi được trả về cho Việt Nam Cộng Ḥa sau ngày kư Hiệp Định Geneva
20.07.1954, Thiếu Tướng Phú đă thề với ḷng là người thà chết chứ không chịu
nhục nhă lọt vào tay giặc một lần nữa. Lời thề ấy người đă giữ trọn, người
chết đi mang theo một nỗi hận mất nước và một nỗi oan khuất về cuộc triệt
thoái Quân Khu II không mong muốn. C̣n nhớ tại trận Điện Biên Phủ, toàn tiểu
đoàn của Đại Úy Phú chỉ c̣n có 100 tay súng mà phải ngăn chống một số lượng
quân địch đông gấp hai mươi lần, ông dẫn quân lên đánh cận chiến với địch và
giành lại được hơn 100 thước chiến hào. Đại Úy Phú và một số các sĩ quan chỉ
huy tiểu đoàn đều bị đạn địch quật ngă và một vài giờ sau đó bị sa vào tay
giặc. Trong thời gian bị giặc bắt làm tù binh, bệnh phổi của Đại Úy Phú tái
phát và ông mang bệnh lao. định mệnh vẫn c̣n muốn cho người anh hùng được
sống, để tiếp tục chiến đấu cống hiến nhiều hơn nữa cho nền tự do của tổ quốc,
sau tháng 07.1954 Đại Úy Phú được trả về cho Việt Nam Cộng Ḥa. Vị Tướng mảnh
khảnh người, khuôn mặt xương nhưng có cái bắt tay mềm mại ấm áp ấy đă nhanh
chóng trở thành một trong những vị Tướng xuất sắc nhất của Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa, lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc
Biệt, Tư Lệnh Biệt Khu 44 thuộc Miền Tây, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, và sau
hết Tư Lệnh Quân Đoàn II; Quân Khu II. Chính là ở vị thế cực kỳ khó khăn này,
Thiếu Tướng Phú phải đương đầu với nhiều vấn đề sinh tử có tầm vóc quốc gia,
mà đă vượt ra khỏi quyền hạn nhỏ bé của ông. Người ta cho rằng việc thất thủ
Ban Mê Thuột là do lỗi thiếu phán đoán của Thiếu Tướng Phú. Người ta chỉ có
thể dùng quân luật và quân lệnh để bắt buộc Thiếu Tướng Phú thi hành lệnh rút
quân, thậm chí đặt ông vào t́nh trạng bất khiển dụng v́ lư do sức khỏe ngay
trong ngày 14.03.1975, hai ngày trước khi Quân Đoàn II rút quân ra khỏi cao
nguyên. Thiếu Tướng Phú đau ḷng theo dơi các mũi tiến quân của địch, như
những vết dầu loang nhanh chóng thấm đỏ hết hai phần ba lănh thổ Việt Nam Cộng
Ḥa. Người biết cái sinh mạng nhỏ bé của ḿnh cũng co ngắn lại cùng với số
mệnh của đất nước. Rồi khi những chiếc khăn rằn và những chiếc áo màu xanh rêu
mốc đă tràn ngập khắp phố phường Sài G̣n trong ngày 30.04.1975, người chọn cái
chết lưu danh thanh sử bằng cách uống độc dược, để tỏ rơ ư chí bất khuất của
người làm Tướng và chứng tỏ cho đối phương biết rằng họ có thể chiếm được đất
nhưng không có thể quy phục được tiết tháo của những người lính Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa.
Một trong những hồi ức rất đẹp và rất hào hùng mà Chuẩn Tướng Lê
Nguyên Vỹ c̣n để lại trong chiến sử Việt Nam, là lúc ông cầm khẩu
súng chống chiến xa M72 nhoài người lên khỏi hầm chỉ huy của Chuẩn Tướng Lê
Văn Hưng tại An Lộc bắn cháy một chiếc T54 chạy lần quầng sát một bên, trong
lúc Chuẩn Tướng Hưng đă thủ sẵn một trái lựu đạn trong tay để cùng chết với
quân địch. Đại Tá Vỹ đích thực là một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Đông khi ông
về phục vụ dưới cờ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968. Đại Tá Vỹ nổi danh là
một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ
huy. Sau chiến thắng An Lộc, Đại Tá Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn
21 Bộ Binh, cho đến gần cuối năm 1974, sau một khóa học Chỉ Huy và Tham Mưu
Cao Cấp bên Hoa Kỳ về, cái ghế và văn pḥng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang chờ
đợi ông, cùng với chiếc lon mới Chuẩn Tướng. Chuẩn Tướng Vỹ dưới con mắt nể
trọng của chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh, là một vị chỉ huy siêng năng và đáng
kính. Người nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, bản tính của người bộc
trực và dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấu. Một số sĩ quan trong sư đoàn làm
chuyện càn quấy, ăn chận trên xương máu của chiến sĩ đều bị người trừng trị
thẳng cánh. Chuẩn Tướng Vỹ là một trong những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần
tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ. Người
ta nh́n thấy ở ông một tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng kiến khi
phải đương đầu với những vấn đề khó khăn. Về mặt quân sự, người có một tầm
nh́n chiến lược rất bao quát và thường hay bày tỏ với các sĩ quan tham mưu:
“Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh ḿnh ngoài này mà
sẽ t́m cách len lỏi đi thẳng về Sài G̣n”.
Sự phán đoán đó về sau đă hoàn toàn đúng. Một quân đoàn Bắc Việt
không giao chiến với Sư Đoàn 5 Bộ Binh, mà t́m cách len lỏi xuyên qua những
điểm bố trí của sư đoàn, hối hả tiến về Sài G̣n để dứt điểm Tướng Dương Văn
Minh.
Sáng ngày 30.4.1975 họp tham mưu sư đoàn xong, Chuẩn Tướng Vỹ và toàn ban sĩ
quan ngồi bên chiếc máy thu thanh chờ nghe Tướng Minh đọc nhật lệnh quan
trọng.
Trong thâm tâm Chuẩn Tướng Vỹ, người cứ tưởng là Tướng Minh sẽ kêu gọi toàn
quân chiến đấu đến cùng, hoặc di tản về Miền Tây tiếp tục đánh.
Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan,
kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa các cấp buông súng, ai ở đâu th́ ở
đó và chờ binh đội cộng quân đến bàn giao. Chuẩn Tướng Vỹ nghiến răng
miễn cưỡng ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc
cấp giải tán.
Trước khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đă mời các sĩ quan cùng ăn một bữa cơm cuối
cùng với ông. Nh́n khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của vị Tư Lệnh, các sĩ
quan đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng,
nên họ đă khéo léo giấu hết súng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm
trắng ngần trong khoảnh khắc đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắc như
những hạt sỏi. Mọi người c̣n đang dùng cơm th́ Chuẩn
Tướng Vỹ bỗng bỏ ra ngoài đi nhanh về hướng chiếc trailer dùng làm văn pḥng
tạm cho Tư Lệnh. Các sĩ quan kinh hoàng nghe hai tiếng nổ đanh gọn phát ra từ
chiếc trailer. Mọi người hối hả chạy ùa tới mở cửa th́ thấy Chuẩn Tướng Vỹ nằm
trên vũng máu và người đă thực sự ra đi, trên tay c̣n cầm khẩu Beretta 6.35 mà
mọi người không nhớ là nó c̣n nằm trong chiếc trailer. Chuẩn Tướng Vỹ đă bắn
vào phía dưới cằm, đạn đi trổ lên đầu.
Khi các sĩ quan và binh đội cộng sản vào tiếp quản doanh trại. sĩ quan sư đoàn
cao cấp của địch đă nghiêng ḿnh kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói:
“Đây mới xứng đáng là con nhà Tướng.”
Các chiến sĩ sư đoàn chuyển thi thể vị chủ tướng ra an táng trong rừng cao su
gần doanh trại Bộ Tư Lệnh. Ít lâu sau, thi thể Chuẩn Tướng Vỹ lại được thân
nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp, Sài G̣n. Năm 1987, bà
cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ lặn lội vào Nam hỏa thiêu hài cốt của người anh
hùng và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.
Cũng với tấm ḷng của những người mẹ thương con bao la mênh mông như đại
dương, bà cụ thân mẫu của Chuẩn Tướng Trần Văn Hai tuổi già
tấm lưng c̣ng c̣m cơi với thời gian, đă mưu trí gạt được quân cộng đang tràn
ngập trong căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh đem
được thi thể vị Tư Lệnh về G̣ Vấp mai táng. Bà rưng rưng nước mắt nghẹn ngào
nhận gói di vật của con bà từ tay một vị Trung U¨y thuộc cấp, trong đó có một
vài vật dụng cá nhân và số tiền hai tháng lương khiêm nhường của Chuẩn Tướng
là 70.000 đồng. Là một người con hiếu thảo, trước khi ra đi người c̣n cố gửi
về cho mẹ số tiền nhỏ bé đó.
Lúc c̣n sống Chuẩn Tướng Hai nổi tiếng là vị Tướng thanh liêm, cuộc đời thanh
đạm không có của cải vật chất ǵ đáng kể, ngoài chiếc xe Jeep của quân đội cấp
cho, th́ khi người ra đi, người chỉ để lại cho hậu thế thanh danh thần tướng
cùng tấm ḷng sắt son đối với dân tộc và tổ quốc.
Tài năng của Chuẩn Tướng Hai được xác định bằng những chức vụ quan trọng trong
hệ thống quốc gia như Tỉnh Trưởng Phú Yên, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, Tư
Lệnh Phó Quân Đoàn II; Quân Khu II, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia và sau cùng là
Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đảm nhiệm những chức vụ cao tột như vậy mà người
vẫn sống một cuộc sống b́nh dị, nghiền ngẫm kinh Phật, trên tay lúc nào cũng
thấy những loại sách học hỏi khác nhau. Chuẩn Tướng Hai cũng nổi tiếng là vị
Tướng thương yêu và chăm lo cho đời sống chiến binh các cấp dưới quyền hết
mực, thậm chí coi thường cả mạng sống. Như câu chuyện đă trở thành huyền thoại
về Đại Tá Hai, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, đầu năm 1968 đă cùng vài sĩ quan
đáp phi cơ C123 ra tận chiến trường Khe Sanh và nhảy xuống, lặn lội ra tận
từng chiến hào tiền tuyến thăm hỏi khích lệ chiến sĩ Tiểu Đoàn 37 Biệt Động
Quân, dưới những cơn mưa pháo rền trời của địch.
Năm 1974 định mệnh đă đưa Chuẩn Tướng Hai về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh để
tên tuổi của người lưu tại ngh́n thu trong sử sách, bằng cái chết hào hùng mà
đă làm địch quân kinh hoàng.
Trước ngày 30.04.1975 chừng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy
bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản, mặc dù Chuẩn Tướng Hai không phải
là người thân cận hay thuộc phe phái của ông Thiệu, điều đó cho thấy uy tín
của người rất lớn. Chuẩn Tướng Hai thẳng thắn từ chối và cương quyết ở lại
sống chết với chiến hữu của ông. Chuẩn Tướng Hai trong ngày cuối cùng vẫn tươm
tất uy nghi trong bộ quân phục tác chiến ngồi trong văn pḥng Tư Lệnh chờ quân
địch đến. Người ôn tồn khuyên bảo sĩ quan và chiến binh thuộc cấp trở về với
gia đ́nh, nhưng có một số vẫn nhất quyết ở lại bảo vệ vị chủ tướng của họ. V́
họ biết Chuẩn Tướng Hai sẽ không bàn giao căn cứ Đồng Tâm, hoặc nếu có bàn
giao th́ cái phương thức ông làm sẽ không phải là phương thức kiểu đầu hàng.
Một con người đă từng chiến đấu bảo vệ đất nước hơn hai mươi năm, không lư do
ǵ người giao lại cho địch một cách dễ dàng. Khoảng xế trưa, một đơn vị cộng
quân thận trọng tiến vào Đồng Tâm và nhỏ nhẹ đề nghị xin được tiếp quản căn
cứ. Chuẩn Tướng Hai ngồi ngay ngắn sau chiếc bàn, bên
trên có hai cái đế nhỏ gắn lá Cờ Vàng Việt Nam và lá cờ Tướng một sao, nghiêm
nghị đ̣i hỏi một viên sĩ quan sư đoàn trưởng đến gặp ông. Ngoài điều kiện đó,
ông không muốn bàn chuyện nào khác. T́nh h́nh rất căng thẳng, hai bên giương
súng gh́m nhau. Măi lâu sau mới có một người gơ của xin vào rụt rè tự nhận là
sư đoàn trưởng. Chuẩn Tướng Hai bất ngờ rút súng lục ra nổ mấy phát vào viên
sĩ quan địch. Với khoảng cách rất gần đó, ông có thể giết chết đối phương dễ
dàng, nhưng ông chỉ bắn ông này bị thương nhẹ phải bỏ chạy ra ngoài. Để cho
địch biết, rằng muốn chiếm được nước Nam th́ họ phải trả một cái giá nào đó.
Chiều tối cùng ngày, Chuẩn Tướng Hai đă uống thuốc độc tự sát trong văn pḥng
Tư Lệnh.
Những người anh hùng của dân tộc Việt Nam, những chiến sĩ dũng mănh của
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, suốt đời tận tụy với nước non, đă hiến dâng cho tổ
quốc những giọt máu đỏ thắm tinh khôi cuối cùng của ḿnh.
Tên tuổi và tấm gương chiến đấu của những vị thần tướng ấy măi măi lưu lại
trong sử sách Việt Nam và được dân tộc Việt Nam ngàn đời phụng thờ hương khói.
Phạm Phong Dinh