Cái
Gạch Nối Trong Chữ Việt
Phụng Nghi
1. Cái gạch
nối
Trong chữ Việt, cái gạch nối dùng để
kết hợp những thành tố viết rời
của một từ gồm nhiều âm tiết.
Nếu viết riêng rẽ th́ những âm tiết nói
trên sẽ có một nghĩa khác, tức là nghĩa
riêng biệt của từng âm tiết. Sau đây là
một vài thí dụ:
- Độc có nghĩa là một, có số lượng
chỉ một mà thôi. Lập có nghĩa là đứng
thẳng. Ghép lại, độc-lập có nghĩa:
1. Tự ḿnh sống, không dựa vào người
khác. Sống độc-lập.
2. (Nước hoặc dân tộc) có chủ
quyền. Nền độc-lập dân tộc.
- Bà là người đàn bà thuộc thế
hệ sanh ra cha hoặc mẹ ta. Con là người
thuộc thế hệ mà ta sanh ra. Ghép lại, bà-con
có nghĩa là thân quyến, người có quan
hệ họ hàng. Một người bà con xa.
- Cay là có vị như khi ăn ớt, ăn tiêu,
ăn gừng hoặc khi uống rượu. Đắng
là có vị như khi ăn trái khổ qua, trái
bồ ḥn, mật cá hoặc uống thuốc
bắc. Ghép lại cay- đắng (hay đắng-cay)
có nghĩa là đau khổ, xót xa. Thất bại
cay-đắng.
Như vậy, ta thấy cái gạch nối có
một vai tṛ rất quan trọng. Nó dùng để
phân biệt từ đơn với từ ghép.
Từ cuối thế kỷ 19 và trong những
thập niên đầu của thế kỷ 20 này,
theo ngữ pháp, ta dùng cái gạch nối đối
với những từ ghép, mục đích là để
câu văn được rơ nghĩa. Trong học
đường, thời bấy giờ, đối
với những từ ghép, thiếu cái gạch
nối là một lỗi chánh tả tương
tự như các lỗi chánh tả khác: c với t
(các/cát), ch với tr (chương/trương), d
với gi (dang/giang), dấu hỏi với dấu ngă...
2. Ngữ pháp cú
Qui tắc về việc sử dụng cái gạch
nối trong tiếng Việt đă có từ
cuối thế kỷ 19, thời chữ quốc
ngữ mới được h́nh thành. Nhà bác
học, cũng là nhà ngữ học Trương Vĩnh
Kư (1839 - 1898) đă viết: "Để tránh
lẫn lộn từ đơn và từ đôi,
từ kép, chúng tôi đă chấp nhận, trong các
từ điển, văn phạm và các ấn
bản khác của chúng tôi, dùng gạch nối
để xác định từ kép và ghép đôi
một số mẫu âm khác của chúng tôi, dùng
gạch nối để xác định từ kép
và ghép đôi một số mẫu âm làm cho âm
cuối dễ nghe như líu-lo, dăng-dẳng."
Gần đây, dựa theo các sách đă xuất
bản, chúng tôi ghi nhận, trên những sách in trước
năm 1975, các tác giả vẫn c̣n dùng cái
gạch nối đối với những từ ghép.
Sự kiện này cho biết, vào cuối thế
kỷ 19 và hơn nửa đầu thế kỷ
20 này, những người làm giáo dục và văn
học đă sử dụng cái gạch nối trong
những trường hợp sau đây:
2.1 Từ ghép Hán-Việt: tự-do, độc-lập,
ngôn-ngữ-học, thuận-thinh- âm, hồng-
thập-tự, tiềm-thủy-đỉnh, hàng-không-mẫu-hạm,
thủy-quân-lục- chiến.
2.2 Từ ghép thuần Việt:
- Từ kép, cũng gọi là từ láy, gồm
một âm có nghĩa với một âm không nghĩa
để cho xuôi tai: bạc-bẻo, dễ-dàng,
đầy-đặn, khỏe-khoắn, líu-lo,
mặn- mà, nhỏ- nhắn, nở-nang,
sắc-sảo, vững-vàng, xót-xa.
- Từ kép gồm hai âm không có nghĩa riêng, nhưng
khi ghép lại, hai âm tạo thành một từ có
nghĩa chung: bâng-khuâng, hững-hờ, lai-láng, mênh-mông,
mơn- mởn, ngậm-ngùi, thênh-thang.
- Từ kép gồm hai câu có nghĩa riêng: biển-dâu,
bướm-ong, cay- đắng, đầy- đủ,
mắm-muối, mệt-mỏi, phẳng-lặng, vàng-thau.
- Từ kép gồm hai âm đồng nghĩa:
chợ-búa, dơ-bẩn, dư-thừa, đau-
ốm, gầy- ốm, h́nh-ảnh, lẫn-lộn,
lựa-chọn, mập-béo, nhỏ-bé, nông-cạn,
ô-dù, sắc-bén, thổi- nấu, thương-yêu,
to-lớn, rơi-rớt.
- Từ kép gồm hai từ đồng âm:
chậm-chậm, đời-đời, hàng-hàng,
hay-hay, hiu-hiu, lớp-lớp, măi-măi, ngày-ngày,
rầu-rầu, xa-xa...
2.3 Nhân danh (tên tục, tên hiệu): Nguyễn-Du,
Tố-Như, Trương-Vĩnh- Kư, Đào- Duy-Anh, Dương-Quảng-Hàm,
Trần-Trọng-Kim, Nguyễn-Hiến-Lê, Vương-Hồng-
Sển.
2.4 Địa danh: Việt-Nam, Hoa-Kỳ.
2.5 Danh từ riêng phiên âm: Hoa-Thịnh-Đốn,
Mạc-Tư-Khoa.
2.6 Từ có quan hệ qua lại với nhau: từ
điển Hán-Việt, bang giao Mỹ- Việt,
luật hỏi-ngă, thi văn cổ-kim, văn hóa
Đông-Tây, phát triển khoa-học- kỹ-thuật.
2.7 Danh từ chung phiên âm: cát-xết, vi-đê-o. Đối
với một số tên chung phiên âm đă hoàn toàn
Việt hóa, ta bỏ luôn cái gạch nối: cà phê,
cà vạt, câu lạc bộ, đô la, ga ra, nóc ao,
ra đa, ra gu, ti vi, xích lô.
2.8 Một số từ ngữ mà các âm tiết không
thể tách rời: chợ-nhà- lồng, khô-cá-
chỉ- vàng, tại-v́-bởi.
2.9 Giữa các con số chỉ ngày tháng năm : ngày
1-1-1998
2.10 Giữa hai nhóm số chỉ năm để nói
lên khoảng cách thời gian: 1975 - 1998.
Trên đây là những qui tắc trong việc
sử dụng cái gạch nối khoảng trước
năm 1975. Tuy nhiên cũng phải ghi nhận là
việc dùng cái gạch nối này của những
người làm văn hóa chưa thống nhất.
Có tác giả áp dụng triệt để các nguyên
tắc, nhưng cũng có tác giả chỉ áp
dụng một cách đại khái hay tương
đối, tùy theo quan niệm của mỗi cá nhân.
Thậm chí, có trường hợp cùng một tác
giả mà trong một bài viết, đối
với các từ ghép (cả Hán-Việt lẫn
thuần Việt) có lúc dùng cái gạch nối, có
lúc không.
Xin trích dẫn một đoạn trong lời
tựa "V́ sao có sách này?" của cuốn
"Giản-yếu Hán-Việt Từ-điển"
của nhà học giả tiền bối Đào-Duy-Anh,
viết ngày 1-3-1931, Nxb Minh Tân, Paris, in lại năm
1949:
Vô luận nước nào, văn-tự đă phát
đạt đến một tŕnh độ khá khá
đều phải có những sách Tự-điển
hoặc Từ-điển để làm tiêu-chuẩn
và căn-cứ cho người học. Quốc-văn
của ta ngày nay đă có chiều phát đạt,
thế mà ta chưa thấy có một bộ sách
Tự-điển hoặc Từ-điển nào,
đó thực là một điều khuyết-điểm
lớn mà ai cũng phải công-nhận.
Trong đoạn văn trên đây, theo nguyên
tắc, những từ in nghiêng phải có cái
gạch nối, v́ đó là những từ Hán-Việt
và từ ghép thuần Việt. Nhưng v́ sao tác
giả không dùng gạch nối? Sự kiện này
cho thấy, việc sử dụng cái gạch
nối khó đạt đến sự thống
nhất như trên lư thuyết.
3. Ngữ pháp mới
Khoảng từ năm 1975 cho đến nay:
3.1 Trong năm trường hợp ghi từ mục
2.1 đến 2.5 trên đây, tuyệt đại
số những sách báo xuất bản trong nước
và tại hải ngoại, ta đă xóa bỏ
hẳn cái gạch nối. Sự "cải cách"
này đă diễn ra âm thầm. Có phải chăng
nó đă xuất phát từ một "ngữ pháp
bất thành văn." Các tác giả tiền
bối lần hồi bỏ cái gạch nối.
Thế là các tác giả hậu bối cũng theo gương.
3.2 Trong năm trường hợp kế tiếp,
từ mục 2.6 đến 2.10, ta vẫn duy tŕ cái
gạch nối.
3.3 Từ ngày trong nước và ở hải
ngoại hai phương tiện điện
thoại và điện thư (fax) được
phổ biến, ta đă dùng cái gạch nối
để phân cách các nhóm số của hai hệ
thống này. Điện thoại: 714 - 500-4000, Điện
thư: 714 - 800-7000.
3.4 Chúng ta thử t́m hiểu xem nguyên nhân nào
khiến cho, sau năm 1975, cái gạch nối đă
được xóa đi trong năm trường
hợp từ 2.1 đến 2.5.
Thực tế cho thấy, việc dùng gạch
nối ở năm trường hợp nói trên
đă gây một số bất tiện và phiền
phức.
- Người viết phải bận tâm đến
cái gạch nối, mất thời giờ suy nghĩ,
thời giờ viết lên giấy và thời
giờ ḍ lại bài xem có sai sót không?
- Trong ngành ấn loát, người đánh máy và người
sắp chữ phải nhọc công và khổ sở
v́ cái gạch nối. Trước kia, trong thời
kỳ ngành ấn loát nước ta c̣n lạc
hậu, việc sắp chữ để làm bản
in "typo" được thực hiện theo
lối thủ công. Trong công việc sắp chữ,
thêm một cái gạch nối kể như thêm
một con chữ.
Việc xóa bỏ gạch nối không ảnh hưởng
trầm trọng đến câu văn về mặt
ngữ nghĩa. Người đọc b́nh thường
dễ dàng phân biệt từ đơn và từ ghép.
Cả người viết và người đọc
đă mặc nhiên hiểu ngầm là các từ ghép
Hán- Việt và thuần Việt luôn luôn được
nối với nhau bằng cái "gạch nối vô
h́nh." Ta đă "hi sinh" cái hợp lư để
đổi lấy cái thực dụng, cái giản
tiện. Ngày trước, có cái gạch nối là
hợp lư. Ngày nay không có cái gạch nối cũng
hợp lư. Ngữ pháp chung qui chỉ là một qui
ước, một sự giao ước giữa người
viết và người đọc.
4. Viết dính liền
Từ xưa tới nay, cả ở trong nước
lẫn ở hải ngoại, một số người
có xu hướng viết dính các âm tiết ở
hai trường hợp 2.1 và 2.2: tựdo, vữngvàng,
ngônngữhọc, kimtựtháp, hàngkhôngmẫuhạm.
Giải pháp này là để thay thế cái gạch
nối đối với các từ ghép. Tuy nhiên,
việc cải cách này gặp một trở
ngại khác và xét không ổn nên không được
hưởng ứng. Lư do là những từ viết
dính liền có thể sẽ bị đọc và và
bị hiểu sai lệch.
4.1 Những từ ghép dính liền có thể
được đọc một cách khác:
B́nh an viết b́nhan có thể đọc là b́ nhan
hoặc b́n han
Giáo án viết giáoán có thể đọc là giá oán
hoặc gi áo án
Phátââm --> phát âm --> phá tâm
Phát hành --> pháth ành --> phá thành
T́nh ái --> t́n hái --> t́ nhái --> t́n hái
4.2 Những từ vốn chỉ có một âm nay có
thể được đọc tách rời thành
hai âm:
Thúy có thể đọc là thú y
Khối --> kho ái hoặc khó ai
5. Kết
Những người chủ trương duy tŕ cái
gạch nối trong những từ ghép Hán-Việt
và thuần Việt và những người chủ
trương viết dính liền những từ ghép
lại này đều có lư. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, đối với bất cứ ngôn
ngữ nào cũng vậy, người ta không
thể ép nó vào một khuôn mẫu hợp lư
được. Nói và viết, đúng hay sai là
một thói quen, lập đi lập lại qua
nhiều thế hệ. Mà thói quen xuất phát
từ sự thực dụng. Và một khi đă thông
dụng th́ mọi người đều phải
theo. Khó mà đem môn lư luận ra để phê phán
được. Trừ phi, có điểm nào quá vô
lư, nếu muốn sửa đổi th́ phải có
sự đồng thuận của số đông.