Bên Đời Luôn Có MẸ
Viết để tưởng nhớ MẸ tôi
cùng tất cả các Bà Mẹ Việt-Nam đă sản sinh, nuôi dạy, đào-tạo và dâng-hiến những đàn con trai trẻ lên
đường bảo vệ sự vẹn toàn lănh thổ Quốc Gia Việt Nam Cộng Ḥa. Cuối cùng khổ đau
triền miên trong nỗi buồn Mất Mát và Vong Quốc.
Tùy Bút : Tây-Đô Lâm Tài Thạnh.
Lúc bấy giờ là ba giờ sáng của Ngày Thứ Năm giữa tuần, mọi người trong
trách-nhiệm và bổn-phận trả nợ cơm áo hằng ngày đều đang trông chờ thời gian qua
mau để có được một chút hạnh phúc nhỏ nhoi của cuối tuần nghỉ ngơi, thăm viếng, mua sắm, giải trí rồi lại vật lộn với cuộc sống tha phương vốn
dĩ đă có nhiều
vấn nạn mà gần 28 năm qua chưa có được một câu trả lời thích đáng. Thế mà giữa
cảnh yên-lặng của đêm trở ḿnh chờ sáng, tiếng chuông điện thoại đột ngột vang
lên khô-khốc mang âm hưởng của chia ly, cách biệt, tang tóc. Cuộc mạn đàm
đối thoại với ngườ́ nữ âm thọai viên từ bên kia bờ đại dương chưa đầy 30 giây đă
khiến toàn thân tôi tê liệt và bất động v́ tôi hiểu có việc ǵ không ổn cho Mẹ
tôi. Sau khi ngỏ lời
cám ơn, đặt điện thoại xuống, nhấc lên, tay run run bấm từng số một những con
số mà trước đây trở thành quen thuộc trong niềm vui mỗi khi gọi về thăm Mẹ tôi
nay bổng dưng nặng nề, buồn nản. Đường dây
viễn liên được nối liền nhanh chóng
và rơ ràng. Âm giọng nức nỡ, sụt sùi của cô cháu gái gọi tôi bằng
Chú đă minh-định một thực tế phũ phàng, đau đớn:
"Bà Nội đă đi rồi, Chú Ba ơi."
Mẹ già như trái chín cây
Gió lay Mẹ rụng con đành mồ côi
( Trích đăng )
Cha tôi vốn là một công chức của Ty Công Chánh Tỉnh Ba Xuyên ( Khánh Hưng –
Sóc Trăng ) đă từ giă cơi đời rất sớm sau một cơn bạo bệnh để lại người vợ trẻ
với 05 con thơ nhỏ dại, khờ khạo, lúc bấy giờ anh tôi lớn nhất chỉ mới có 09
tuổi. Mẹ tôi với Công, Dung, Ngôn, Hạnh được hướng
dẫn dạy dỗ từ Bà Ngoại
vốn là một gia-đ́nh có chút tăm tiếng ở chợ Rạch-Giá. Mẹ tôi đă gượng dậy sau
mất mát to lớn
bằng tự sức ḿnh với sự hỗ trợ, tiếp tay phụ giúp
của các cô tôi . Mẹ tôi đă khắc-phục mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống của
một góa phụ trẻ để ḥa ḿnh vào công việc của một bậc thầy chuyên hướng dẫn dạy
dỗ môn Nữ Công Gia
Chánh cho các nữ sinh của hầu hết các Trường Trung Học tại Tỉnh Lỵ đồng thời Mẹ
tôi cũng là người luôn được sự ưu ái, tiếp đón nồng nhiệt của các phu nhân Tỉnh
Trưởng khi cần thiết vài buổi tiệc khoản đăi quan khách từ Trung Ương đến thanh
tra hay mở các pḥng triển lăm liên quan đến sự phát triển của Tỉnh nhà hoặc tổ
chức hoạt cảnh, thi đua nấu ăn nhân Ngày Lễ Hai Bà Trưng v…v… Anh em chúng tôi
được nuôi sống, dạy dỗ và trưởng thành trong hy sinh, cần cù, chắt chiu,
chịu đựng với tuổi xuân th́ của Mẹ chúng tôi như thế, hiểu một cách khác anh em
chúng tôi chưa bao giờ cảm nhận được câu tục-ngử : “Con không cha như nhà không
có nóc”.
Năm ba bốn Mẹ thành góa phụ
Khóc thương ngày vĩnh biệt đấng lang quân
Tang khăn trắng dẫu đau t́nh xót
Gạt lệ sầu gượng tiếp bước nuôi con
Trên bục giảng phấn buồn không nét
Mực nghiêng tràn khép tuổi nửa chừng xuân
Lời phụ mẫu Mẹ ghi ḷng nhớ
Đuốc soi đường dung hạnh quyết không quên
Câu tứ đức, tam ṭng dạ tạc
Tháng năm dài hết Hạ đến Xuân sang
Thân c̣ lă kiếp tầm Mẹ vẫn
Nguyện Đất Trời dạy trẻ sớm thành nhân
Sau cuộc Cách Mạng 1/11/1963, trong khí thế chung của một đổi đời mang nhiều di
hận về sau cho toàn dân tộc Việt Nam. Buổi cơm chiều đă mất hẳn đi sự vui tươi
gịn giả như thường lệ với trang báo được xếp góc cẩn thận để thấy rơ một thông
báo của Bộ Quốc Pḥng với nội dung kêu gọi thanh niên t́nh nguyện ghi danh vào
lớp Sĩ Quan Trừ Bị Khóa 17 tại Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức.
- Con tính ghi danh t́nh nguyện đi Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
Mẹ tôi vội buông đũa:
- Không được, muốn đi lính th́ phải hỏi ư kiến Anh Hai con ( Mẹ tôi quan niệm:
Quyền Huynh Thế Phụ. Lúc bấy giờ Anh Hai tôi đă tốt nghiệp
Trường Canh Nông Thực Hành đi làm công chức với ngạch trật là Huấn Sự Kiểm Lâm tại Hạt Hà Tiên,
độc thân nên thường hay gởi tiền về phụ Mẹ tôi ). Câu chuyện đi lính thế là tạm
thời không bàn đến để chờ ư kiến Anh Hai Tôi. Hôm sau Mẹ tôi cấp tốc gởi điện
tín đi.
- Không được vào Thủ Đức. Ráng học lấy Tú Tài 2 rồi vào Vơ Bị Đà Lạt.
Đó là nội dung trả lời của Anh Hai tôi.
Chí đă quyết, ḷng đă chọn tôi cố gắng thuyết phục Mẹ tôi qua luận cứ:
-
Sĩ
Quan
Đà Lạt th́ phải ở trong quân đội suốt đời c̣n Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức chỉ phục vụ
có 4 năm sau đó sẽ được cho giải ngũ về đi học lại hoăc chọn ngành nghề khác có
tương lai hơn.
Đồng thời tôi cũng nhờ Chú tôi ( Đại Úy Trừ Bị ) nói giúp.
Ngày 20 Tháng 12 Năm 1963, Mẹ tôi kư giấy cho tôi t́nh nguyện gia nhập Khóa 17
Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Năm ấy tôi vừa tṛn 18 tuổi vào Quân Trường không chút
vướng bận, bâng khuâng lại c̣n mang tâm trạng nhẹ nhàng, thư thái v́ từ nay
không c̣n cảnh hồi hộp lo sợ những khi vào lớp học bài vở biết ta mà ta lại
không biết nó, đứng ngẩn măt trước tấm bảng đen sau lưng là các bạn học gái th́
quả t́nh chẳng đẹp mặt và xấu hổ biết bao. Chưa bao giờ tôi đặt cho ḿnh một
câu hỏi sẽ có những ǵ chờ đợi ở phía trước nơi đầu sóng ngọn gió với những cảnh
tử-biệt, sinh ly mất mát. Chưa một lần thắc mắc hoài nghi, bất măn khi nh́n
quanh cảm nhận được vẫn c̣n nhiều tuổi trẻ chưa nhập cuộc. Trong khi đó tôi nào
có biết
Mẹ tôi đă lặng lẻ mang hoa quả, nhang đèn đến các kiểng Chùa trong Tỉnh cúng
bái, cầu nguyện xin ơn trên che chở cho tôi được an b́nh trong cuộc đời chiến
binh đầy gian khổ hiểm nguy nơi chiến trường.
Lần tay chuỗi hạt nguyện kinh cầu
Quan Âm, Phật Tổ luôn che chở
Mũi đạn ḥn tên vượt thoát nguy
Đêm nay tóc trắng càng thêm trắng
Mẹ tiển con đi luống chạnh ḷng
Quan hà chia cách thương con trẻ
Đếm bước đường xa tấc dạ đau
Mai này ai thức khi con trễ
Tiếng giận lời yêu hóa gió bay
Quê hương Đất nước con t́m bến
Mẹ nhủ ḷng tin có Thánh, Tiên.
Tám tháng nơi Quân Trường từ một bạch diện thư sinh, mưa nắng của đồi Tăng
Nhân
Phú đă biến tôi thành một thanh niên chững chạc, dày dạn, tự tin hơn với chính
ḿnh. Là một cư dân của một Tỉnh lỵ nhỏ vùng đồng bằng sông Cửu Long và ở cách
xa Sài G̣n hơn 200 cây số việc đi lại thăm viếng vào lúc bấy giờ rất vất vă,
mất rất nhiều thời gian v́ thế suốt trong giai đoạn 1 khi chưa được đi phép cuối
tuần và chưa có diễm phúc, hạnh ngộ quen biết với các em gái hậu phương, tôi
không kỳ vọng có được bất kỳ sự thăm viếng nào như các bạn cùng một Trung Đội
nên thường lănh phần trực báo tin khi có thân nhân đến. Một buổi chiều Thứ Bẩy
đang ngồi nhâm nhi ly nước ngọt giải lao trong Câu lạc bộ sau nhiều giờ tới lui
báo tin thăm viếng, tôi bỗng giật thót người khi nghe trên loa phóng thanh nhắn
tin tôi ra gấp khu thăm viếng để gặp thân nhân. Th́ ra cũng lại là Mẹ tôi.
Đường xa chân mơi bước đường xa
Lộng gió chiều buông bóng Mẹ hiền
Thương con đâu quản vài trăm số
Xá chút ǵ sông nước cũng qua
Run run tay chuyển quà nhung nhớ
Mẫu Tử thâm t́nh nặng thiết tha
Thành đô hoa lệ con ghi nhớ
Sớm đạt công thành mộng ước mơ
Mai đây vai nặng t́nh Non Nước
Cất chút t́nh riêng Mẹ xót xa.
Trong bóng chiều của buổi hoàng hôn h́nh ảnh Mẹ tôi khuất dần sau cổng Quân
Trường bề thế, hiên ngang đầy vẽ cao ngạo thách thức với hàng chử Liên TrườngVơ Khoa Thủ Đức. Năm ấy Mẹ tôi đă ở vào tuổi trung niên và h́nh như có một điều
ǵ c̣n thiếu sót ở trong tôi, đúng rồi, chưa bao giờ tôi nói thành lời
"Con
thương Mẹ" kể từ khi tôi trưởng thành.
Chiều hôm ráng đỏ mây đùn thấp
Tăng Phú cao đồi bụi cát bay
Khúc nhạc quân hành chân rộn bước
Bốn Một Không Không mộng chí trai ( KBC )
Đưa tiển chi lời chưa kịp nói
Dáng nhỏ thân gầy bóng Mẹ trôi
Có ai thả bến con thuyền giấy
Chở giúp dùm ta tiếng luyến thương
Một nửa ghi t́nh ơn Sông Núi
Nửa mănh hồn kia gửi Mẫu thân mảnh
Từ những bước đi dọ dẫm ngập ngừng đầy ái ngại của buổi ban đầu xen lẫn mặc cảm
sĩ quan trẻ mới ra trường, mặt c̣n búng ra sữa đối với thuộc cấp những người
lính đă thường vào sanh ra tử, chạm mặt với tử thần như cơm bửa hằng ngày của
một đơn vị Tổng trừ bị với nhiều chiến công hiển hách, oai hùng mà tôi đă có
lần mơ ước được phục vụ ngay khi c̣n là học sinh Trung học chẳng bao lâu sau tôi
thực sự ḥa ḿnh vào cuộc sống mới ở đơn vị tác chiến . Nhờ vào sự hướng dẫn của
các bậc đàn anh đi trước cộng thêm tánh ham học hỏi t́m ṭi những điều mà chắc
chắn rằng không thể nào t́m thấy được trong các bài học ở Quân Trường. Sự b́nh
dân cởi mở những khi cần thiết. Sự bao dung độ lượng hợp lư hợp t́nh. Sự oai
nghiêm dũng khí đúng nơi đúng chốn. Sự tiên liệu phán đoán nhạy bén trên chiến
trường.
Sự công bằng trong thưởng phạt phân minh. Tất cả đấy là kim chỉ nam dẫn lối soi
đường trong bước đường binh nghiệp
giữa lúc chiến trường ngày càng thêm khốc –
liệt với máu đổ thịt rơi, mất mát chia xa, kẻ c̣n người mất. Thỉnh thoảng đón
nhận thư từ do hậu cứ chuyển đến Mẹ tôi cũng như bao nhiêu bà Mẹ Việt Nam khác
khi có con đang xông pha trong hiểm nguy lửa đạn, lời thư dặn ḍ bao giờ cũng
là cầu nguyện để được che chở, b́nh an. Niềm tin tôn giáo sau cùng là cứu cánh
duy nhất để các bà Mẹ tự an ủi, tự đánh lừa, tự b́nh tâm trong những đêm dài
trằn trọc mất ngủ đầy âu lo khi nghe tiếng súng từ xa vọng về.
Thư Mẹ đến buồn chiều Thu xám nhạt
Chiến trận tàn lưu dấu cảnh tan hoang
Dăm chiến hữu vội đi không từ biệt
Poncho buồn phủ kín liệm đời trai
Bụi mù bốc chuyến tải thương lần cuối
Biết mai này ai đến bến bờ kia ?
Lần tay mở Quà xa nơi hậu tuyến
Chứa chan t́nh Hiền Mẫu thức canh thâu
Đây Tượng quư Mẹ xin nơi linh hiển
Câu Chú thần thuộc dạ chứ lăng quên
Thần linh đấng đêm đêm luôn cầu nguyện
Mọi vuông tṛn che chở kiếp chinh nhân.
Tôi thực sự trưởng thành trong chiến cuộc cùng đơn vị hành quân trên khắp chiến
trường của Bốn Vùng Chiến Thuật cả Kampuchia
lẫn Hạ Lào. Có một điều đôi khi
ngồi nghĩ lại th́ quả t́nh chính tôi cũng không thể hiểu tại sao trong rất nhiều
trường hợp giữa cảnh lửa đạn mịt mờ của hàng ngàn các loại đạn pháo kích cuả đại
bác 130 ly, hỏa tiển 122, 107 ly, súng không giật bắn thẳng 82 ly, súng
pḥng không 12. 8 ly, 37 ly, 57 ly hạ ṇng bắn thẳng cuả địch tôi lại có thể
thoát chết trong đường tơ kẻ tóc cũng như có thể trở về được an toàn, lành lặn
không một thương tích sau hai lần thực sự lâm vào cảnh hung hiểm khôn lường ( Hạ
Lào và Đà Nẳng ). Phải chăng đấy là nhờ vào sự cầu nguyện vô cùng linh thiêng và
thành tâm khấn bái cùa Mẹ tôi. Người Mẹ với trái tim đầy thương yêu và bao dung.
Ḥa b́nh đến trong cái Hiệp Định quái gở, trói buộc, bán đứng Miền Nam mà
người bạn một thời là Đồng Minh đă ưu ái đặt tên thật là chính xác như những
đồng tiền họ đă bỏ ra đúng với câu dân giả thường nói “bỏ của chạy lấy người”
Đó là:
Việt Nam hóa chiến tranh
( Có nghĩa trước đó, chúng tôi, những người Lính Việt Nam Cộng Ḥa đă chưa từng
chống Cộng Sản để bảo vệ quốc gia? Cuộc chiến đấu trước đó chỉ đơn độc của người
Mỹ ? ) để rồi vội vă rút quân trong danh dự kiểu cao bồi Mỹ và muối mặt lạnh
lùng vứt bỏ mọi cam kết mang tính chất Quốc Tế cũng như niềm tự hào thuở nào
trong vai tṛ lănh đạo cột trụ của Thế Giới Tự Do ngăn chặn làn sóng đỏ. Trong
một bức thư Mẹ tôi viết gởi có nội dung:
“Những ǵ Mẹ cầu nguyện trong suốt 9 năm ( 1964 – 1973 ) con xông pha nơi sa
trường lửa đạn dấn thân vào chốn tử sanh bây giờ đă có ḥa b́nh không c̣n đánh
nhau nữa. Đây là lúc con phải thực hiện lời nói năm xưa với Mẹ và gia đ́nh ( Ư
Mẹ tôi nhắc đến việc xin giải ngũ )". Mẹ tôi cũng như tất cả những người yêu
chuộng tự do muốn sống no ấm trong thanh b́nh, không chiến tranh tàn phá nhằm
xây dựng một đất nước Việt Nam phú cường phồn thịnh đều đă “lầm”, tất cả chỉ
là hư ảo trong cái ḥa b́nh giả tạo, đầy nham hiểm,
man trá của lũ người vô
thần với chủ nghĩa ngoại lai tàn độc cho tham vọng xâm chiếm Miền Nam và làm bá
chủ Đông Dương
trong vai tṛ tay sai cho Nga Xô và Trung Quốc của Cộng Sản Bắc Việt.
Là một cấp chỉ huy tác chiến trung cấp đă trải qua một quá tŕnh dài trực tiếp
chiến đấu với Cộng Sản xâm lược, thực sự đối diện với kẻ thù từng giờ đặc biệt
trong những ngày tháng sau khi Hiệp Định Ngưng Bắn có hiệu lực thi hành ( 27 –
01 – 1973 ) tôi đă thấy rơ mối nguy hại khôn cùng, ảnh hưởng nặng nề đến tinh
thần toàn thể chiến binh nơi tuyến đầu.
Đó là “Không ai muốn trở thành Anh
Hùng vào giờ Thứ 25”. Điển-h́nh là trận đánh giải tỏa và trục xuất một Trung
Đoàn Cộng Sản Bắc Việt vào trung tuần tháng 02 năm 1973 ( chưa đầy 02 tháng sau
khi kư Hiệp Định ) tại vùng sông Vĩnh Định ( Quảng Trị ) khi địch lợi dụng đêm
tối nương theo kẽ hở giữa hai đơn vị nơi chạm tuyến cũng như sự thiếu cảnh giác, đề pḥng đă thọc sâu vào lảnh thổ trách nhiệm gây thành một lơm da beo ngứa
mắt cần phải tiêu diệt.
Lúc bấy giờ tôi là Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 7 Hùm Xám
đầu tiên nhận lệnh chỉ huy Cánh B gồm 02 Đại Đội 4 và 1 đến khu vực hành quân
sau khi Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn được tin báo từ Địa Phương Quân Quảng Trị và dân
chúng về sự xuất hiện bất ngờ của một số cán binh Bắc Việt. Cuộc hành quân có
tính cách thăm ḍ và trinh sát không ngờ trở thành một cuộc chạm trán
dữ dội sau
khi phía Bắc Việt quyết định tử thủ xử dụng đủ loại hỏa lực cá nhân và cộng đồng
chống trả không cho đơn vị tiền sát tuyến gần đồng thời gây một số thiệt hại sơ
khởi cho Trung Đội thám sát. Sau khi lên tuyến đầu trực tiếp quan sát nắm vững
t́nh h́nh tôi quyết định cho ngưng tấn công chờ đêm tối và báo cáo xin tăng viện
để có thể mở thêm một mũi đột phá vào cánh phải của địch quân. Cuộc đột kích
đêm đầu tiên không mang lại kết quả và địch phản ứng lại mạnh mẽ với súng cối và
không giật 82 ly.
Mờ sáng hôm sau lực lượng tăng viện gồm 02 Đại Đội c̣n lại
của Tiểu Đoàn 7 và một Chi Đội M 113 trong đó có một phân đội được cải tiến gắn
thêm mỗi xe một khẩu không giật 106 ly. Để tránh những khiếu nại từ phía Cộng
Sản với Ban Quân Sự Liên Hợp Quốc Tế Bốn Bên đă trú đóng trong thành phố Quảng
Trị đồ nát từ sau khi có Hiệp Định Ngưng Bắn, lệnh trên không cho xử dụng hỏa
lực của Phi cơ và Pháo binh. Trong cương vị là chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân
“giải tỏa và trục
xuất” ở vào thời điểm “tế nhị và khó khăn của giờ Thứ 25” đồng thời để hoàn-thành nhiệm vụ với mức thiệt hại tối thiểu cho thuộc cấp, một kế hoạch “lôi
hỏa
tự biên, tự diễn” được xúc tiến nhanh chóng, được tŕnh báo và chấp thuận theo
hệ thống chỉ huy. Đầu tiên với sự tập trung toàn bộ hỏa lực cơ hữu của Tiểu
Đoàn gồm 04 khẩu Súng Cối 81 ly và 08 khẩu Súng Cối 60 ly cùng nhau tác xạ tiêu
diệt mục-tiêu trong khoảng thời gian nhứt định, kế tiếp xử dụng súng không
giật 106 ly và đại liên 50 ly của Thiết vận xa M 113 tạo sự kinh hoàng và hạn
chế khả năng chống
trả của địch quân. Nhờ Trời thương và do địa h́nh vị trí nơi quân Bắc Việt đang
pḥng thủ quá mơng không có chiều sâu cũng như địch không thể tổ chức đào công
sự, hầm hố kiên cố chịu được các loại hỏa lực tập trung như đă nói trên.
Sau ba ngày giằng co với ḥ hét lẫn thuyết phục phe ta và phe bạn. Cuối cùng chúng tôi
hoàn thành được nhiệm vụ sau khi tên Trung đoàn Trưởng Bắc Việt đích thân giương
cờ trắng xin gặp để thương thuyết xin chúng ta mở một lối thoát cho đơn vị hắn
ta rút ra.
“Dĩ ḥa di quư”. Lệnh trên cho phép mở một lối nhỏ để địch trở về bên kia chạm
tuyến. Tôi không bao giờ quên được giọng nói mang nặng âm hưởng của người miền
Nghệ Tỉnh, dù rằng lúc đó hắn ta mặc quân phục và mang phù hiệu của Mặt Trận
Giải Phóng.
Khi đi ngang qua mặt tôi theo đơn vị rút ra “Thế nào cũng có ngày
chúng ta gặp nhau Thiếu Tá hỉ ?" ( Khi được dẫn vào gặp tôi để xin thương thuyết
th́ vị Đại Đội Trưởng trách nhiệm tuyến đầu đă vô t́nh tiết lộ cấp bậc của tôi
)
Tôi cười nhẹ và nói : “Lần sau chắc không dễ dàng đi ra như thế nầy!”
Đâu đó
vang lên những tiếng chửi thề, đầy vẻ bực bội của một số binh sĩ đang làm nhiệm
vụ canh pḥng. Cái giá phải trả cho giờ thứ 25 không phải là ít. Biết sao?.
Cũng từ đó tôi nhận thức được trong tương lai sẽ có nhiều khó khăn trở ngại,
trăn trở suy nghĩ cho các cấp chỉ huy các đơn vị nhỏ, trực tiếp đối diện với
địch quân nơi tuyến đầu khi phải điều động binh sĩ chống trả lại những vi phạm
cố t́nh giành dân, lấn đất cuả Cộng Sản Bắc Việt do cái hiệp định ngưng bắn kỳ
quái, bán đứng Đồng Minh v́ quyền lợi chiến lược chung toàn cầu của người Mỹ.
Việc ǵ đến th́ phải đến, chỉ có vấn đề là thời gian. Trưa ngày 29 tháng 03
năm 1975 nh́n lên bầu trời, cánh chim sắt cuối cùng vừa cất cánh rời khỏi phi
trường Đà Nẳng bay lượn một ṿng để lấy cao độ hay để
gĩa từ thành phố trái tim
miền Trung thân yêu trong sự hỗn loạn, cực kỳ bi thảm của một thành phố đột
nhiên bị bỏ ngỏ đến độ bàng hoàng ngơ ngác và không tưởng. Nh́n lại đoàn quân
đang di chuyển với đội h́nh hàng dọc, trật tự và sẳn sàng tác chiến không một
chút nao núng, sợ hăi trên đường đi đến điểm hẹn để thực hiện công cuộc pḥng
thủ Đà Nằng ( Lệnh hành quân nhận trực tiếp từ Niên trưởng 216 vào lúc 1800 giờ
chiều ngày 28 tháng 03 năm 1975 qua máy truyền tin PRC 25, thay đổi lệnh tử thủ
tại vị trí đóng quân chung quanh vùng đồi núi Sơn
Trà chạy dài tiếp nối đến cao
độ 1062 chế ngự thung lũng Thường Đức ).
Một thoáng
hănh diện không nói nên lời
đến với tôi nhưng đồng thời nhận rơ trách nhiệm nặng nề trước gần 700 sinh mạng
con người ở vào thời điểm “tái phối trí” không hợp lư này. Vai tṛ chỉ huy
trung cấp như tôi trong hoàn cảnh khắc nghiệt, bó tay như thế này chắc hẳn
không thế nào chuyển đổi được “thế cuộc”. Công điện cuối cùng gửi về cho đơn
vị hậu cứ vào xế chiều 29 / 03 / 75 trong ṿng vây bắt đầu khép kín của kẻ thù
phương Bắc nhằm xác định “giờ sống c̣n” của đơn vị và cũng là lời chào vĩnh
biệt Miền Nam quê hương yêu dấu.
Anh đứng đó súng gh́m trong quyết chiến
Dáng kiêu hùng uy dũng tựa Trường Sơn
Nếu phải chết đậm tô trang quân sử
Xin một lần sống mái Bắc phương quân
Gịng thác đổ địch quân trùng vây phủ
Bóng chiều dần, chiến hạm khuất bờ xa
Đường lui bước nẻo về ngăn lối thoát
Chiến trận tàn không báo tử hồi chuông
Tim sắt đá phát ban lệnh tử chiến
Máu xương người đâu thể hóa tṛ chơi
Không hàng giặc “tẩu vi là thượng sách”
Lệnh “tan hàng” “cố gắng” t́m về Nam
Hạng Vơ đó nhục “ trôn ḷn” dựng nước
Ai mang thắng bại mà luận anh hùng ? .
Giữa khuya đêm 29/ 03 /75 toàn bộ chúng tôi đều bị bắt và trở thành tù binh.
Phép lạ nào đưa đẩy tôi đi đến quyết định nhanh chóng phải vượt thoát khỏi trại
giam giử tù binh ở Ḥa Cầm, trốn lẩn vào dân và ra khỏi thành phố Đà Nẳng chỉ
trước một ngày khi bọn quân quản địa phương bắt đầu siết chặc, kiểm soát sự ra
vào bằng rất nhiều chốt chặn gồm cả quân chính quy Bắc Việt, du kích và cả bọn
nằm vùng chỉ điểm .
Đường dong ruổi thật dài, thật gian nan vất vả và trắc trở nhưng đồng thời cũng
để lại trong tôi nhiều ấn tượng nghẹn ngào, cảm động không thể nào quên, từ
những đồng tiền trao vội vă, bọc gạo sấy chia đôi, chai nước mát lạnh đầy t́nh
thầy tṛ từ những thuộc cấp cũ của Trâu Điên và Mănh Hổ dành cho tôi vào lúc hổn
quân, hổn quan bấy giờ thật là một an ủi vô cùng to lớn đă giúp tôi thêm nhiều
quyết tâm trên đường t́m về phương Nam.
Làm sao quên được sự giúp đở tận t́nh
của một thiếu phụ không quen biết trong căn nhà lá ven Quốc Lộ 1 vùng Tam Quan,
Qui Nhơn vào buổi chiều ngày thứ 9 của cuộc vượt thoát, tôi đột nhiên lên cơn
nóng sốt do cảm nắng cố gắng ghé vào xin ly nước th́ ngă quỵ chẳng những cho tá
túc qua đêm c̣n cho thuốc uống giải cảm, một buổi ăn sáng với những con cá ḷng
tong xen lẫn những con tép ṃng, được kho chung với dừa khô thái nhỏ và sau
cùng là một gói cơm vắt lớn với b́nh đựng nước để tôi tiếp tục lên đường.
Ngày
thứ 11 tại Phường
Sài thành phố Nha Trang có được một buổi cơm nóng và tắm rửa sạch sẽ nhờ vào
ḷng tốt bụng, thương người của một bà Mẹ có con cũng phục vụ trong Quân lực
VNCH.
Tại Phan Rang thêm một phép lạ đến với tôi khi đang lang thang trước Ṭa Hành
Chánh Tỉnh ( Phan Rang vừa mới thất thủ đêm trước ) bổng sau lưng có tiếng gọi
cấp bực cũ do cảnh giác, đề pḥng, tôi giả bộ không nghe và vội
vă rảo bước đi
nhanh, nghe có tiếng chân đuổi theo và câu nói “Tụi em đây mà Thiếu Tá”. Xoay
người lại khi nhận ra đó là hai binh sĩ ở Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn làm việc cho Ban
3 và Ban 2, tôi thở phào nhẹ nhỏm. Sau những lời thăm hỏi chân t́nh khi biết
được ư định t́m về Sài G̣n của tôi th́ Hội ( một trong hai người ) đă nhanh
chóng quyết định đưa tôi về nhà không một chút e-dè, sợ-sệt.
Toàn thể gia đ́nh
Hội đă tiếp đăi tôi thực chu đáo và hứa trong vài ngày tới sẽ t́m phương tiện
cho tôi về Sài G̣n. May mắn cho tôi lúc bấy giờ Phan Rang vừa mới mất và quân
Bắc Việt đang cố gắng dồn mọi nồ lực di chuyển bộ đội, quân trang, vũ khí của
họ thực nhanh trên các tuyến đường Quốc Lộ 1 ( Để có thể nuốt trọn Miền Nam
trước khi có sự can thiệp của người Mỹ bằng không quân. Bắc Việt vẫn c̣n lo sợ
Mỹ sẽ phản ứng vào giờ phút chót. Nếu Mỹ và các quốc gia đă cùng kư Hiệp Định
Paris thi hành đúng sự cam kết có tính cách quốc tế th́ nhiều Sư Đoàn Bắc Việt
đă bị xóa sổ và ngăn chận lại bởi Không Quân Mỹ, chắc chắn sẽ khó có ngày 30
tháng 04 năm 1975 ) và hệ thống chánh quyền kềm kẹp địa phương chưa được h́nh
thành chặc chẻ, sự quản lư c̣n nhiều lỏng lẻo nên mọi việc lo cho tôi t́m đường
về Sài G̣n được tiến hành tốt đẹp.
Ngày thứ 14 trên đường đào thoát tôi được Ba
của Hội đưa đến bến sông có tên Tân Thành ( Một điềm báo hiệu nhiều may mắn và
thành công ), lẩn lộn vào số dân chúng cùng nhau giả bộ hồi cư về lại Qui Nhơn. Sau khi thuyền ra
đến cửa biển th́ đổi hướng trực chỉ về phương Nam. Bộ đội BắcViệt tuổi 16, 17
đóng chốt có bắn theo nhưng vô hại.
Can qua chưa khởi sao tàn sớm
Tráng sĩ chưa mài gươm nhũn tan
Khi xưa sông Dịch , Kinh Kha bước
Nay mất Đà Thành khóc, hận , đau
Đường xa dong ruổi t́m thoát nẻo
Lệ tủi buồn vương , vấn tội ai ?
Hoang vắng đêm về không chăn chiếu
Trở giấc nghe hồn chấp cánh bay
“Con nhớ đừng quên lời cầu nguyện
Vạn ngă vuông tṛn phận , chí trai”.
Linh thiêng đây phút giây t́m đến
Giữ chút niềm tin bước lạc loài.
Ngày thứ 15, tôi về đến Bải Dâu, Vũng Tàu mà cứ ngỡ như vừa qua một giấc chiêm
bao, không tin đó là sự thật, cho đến khi mặc lại bộ chiến phục, tŕnh diện
trước Tư Lệnh Sư Đoàn, thuyết tŕnh những điều mắt thấy tai nghe trên chặng
đường vượt thoát và nhận lệnh nhanh chóng thành lập lại đơn vị ( Tiểu Đoàn 9
TQLC ) sau 03 ngày phép. Lúc này mới thực sự biết rằng “ḿnh trở về từ cỏi
chết”.
Ngày thứ 16, ngồi trên xe do đích thân vị sĩ quan chỉ huy hậu cứ mang ra Vũng
Tàu mừng đón sự thoát hiểm trở về của tôi, một t́nh cờ và hán hữu lại đến với
tôi. Tôi gặp Mẹ tôi đứng ngay bên đường tại Ngă Ba Vũng Tàu đang cùng anh tôi
chờ đón xe để ra Bộ Tư Lệnh Hành Quân tại Vũng Tàu ḥi thăm thêm về tin tức của
tôi (đây
là lần thứ 2 Mẹ tôi xin nghỉ dạy học và đi từ Tỉnh Ba Xuyên để lên Sài G̣n rồi
ra Vũng Tàu thăm hỏi tin tức tôi từ khi hay tin đơn vị bị ghi nhận là mất tích
sau ngày
29 tháng 03 năm 1975).
Gian nan vất vả con về bến
Bóng nắng bên đường thoáng dáng ai
Tóc trắng lưng c̣ng chân vẹo bước
Dỏi mắt đường xa lệ đắng môi
Tâm tư ch́m lắng lời kinh cứu
Nạn khỏi tai qua trọn kiếp người
Măng non những tưởng tre già khóc
Tương phùng chợt đến tựa chiêm bao
Xin Me lau nốt khô gịng lệ
Cất tiếng cười vui buổi họp xum.
Cuộc chiến sau cùng đi vào ngơ cụt với cái mất và chết đầy oan khiên, tức tưởi, nghẹn ngào, uất hận của toàn thể Dân Quân Miền Nam, đặc biệt là đối với các
chiến sĩ trực tiếp cầm súng chiến đấu ǵn giử từng tấc đất, ngọn rau của tổ
quốc, nằm bờ ngủ bụi, đối diện với tử thần trên từng đoạn đường cây số, bỏ
lại sau lưng ánh đèn màu với những thú vui vật chất,
với những tiếng cười thâu đêm suốt sáng của lũ người làm giàu nhờ vào chiến tranh. Hạnh phúc cá nhân và
gia đ́nh của bao chiến sĩ nơi trận tuyến chỉ là một thứ xa hoa phù phiếm dành cho
lớp người trên trước và hậu quả tất yếu không thể tránh với ách họa Cộng Sản phủ
trùm lên quê hương, đất nước. Lịch sử sang trang trong vội vàng bất chợt với
đảo điên, đầy ngu dốt. Ánh sáng cuộc đời đă khép lại và từ đó là màu đen tang
tóc.
Năm 1980 sau 5 năm lưu đày, khổ sai, biệt xứ nơi đất Bắc với tội danh chưa
từng có trong lịch sử Tư pháp loài người “can tội Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng
Lính Thủy Đánh Bộ” và đă lần lượt trải qua nhiều Trại giam khắc nghiệt, ghê rợn
trong các vùng rừng sâu, nước độc, khỉ ho, c̣ gáy, sinh mạng tù nhân được
tính từng ngày, cuối cùng nhờ vào t́nh đoàn kết quốc tế vô sản chuyên chính giả
tạo muôn năm được minh chứng qua cuộc tiến công 6 Tỉnh giáp giới nhằm dạy cho bè
lũ Bắc Bộ Phủ một bài học của đàn anh Trung Quốc
vĩ đại, chúng tôi được di
chuyển về gần các khu vực trong nội địa và do Công An Trại giam Bộ Nội vụ quản
lư và canh giữ. “Cải tạo viên ( sic ) Lâm tài Thạnh chuẩn bị ra thăm nuôi ngày
mai”. Tiếng báo gọi của tên từ h́nh sự phụ trách thông tin của Trại Tù Hà Nam
Ninh ( Trại A )
vang lên khi tù cải tạo đang điểm danh để vào pḥng giam sau 6 giờ tối hằng ngày
như qui định. Điều không tưởng lại đến với tôi khi trưa ngày hôm sau ( buổi
sáng tôi vẫn phải đi lao động đào đất đấp đê ) tôi được gặp Mẹ và Anh tôi nơi
pḥng thăm gặp. Năm ấy Mẹ tôi đă 62 tuổi.
Mẹ già chạy tảo khắp muôn phương
T́m tiền kiếm bạc mưu nuôi sống
Trẻ bước sa cơ cá chậu lồng
Chẳng nệ trần gian nhiều sương gió
Ḥa với đêm Đông xứ lạ người
Chẳng kể đèo cao mây trùng phủ
Trăng mờ núi nhạn Bắc phương xa
Chẳng màng uy thế loài vô lại
Chiến thắng ǵ bây “kẻ lọc lừa”
Tim hồng đây máu c̣n luân chuyển
Cắt đứt được sao ? Mẫu tử t́nh !
Đây là chuyến thăm nuôi duy nhất trong suốt thời gian tôi bị lưu đày nơi miền
Bắc Xả Hội Chủ Nghĩa ( Cộng Sản Bắc Việt già mồm trên loa phóng thanh trong ngày
đầu tiên khi tù sĩ quan Miền Nam đặt chân lên Bải Cháy Hải Pḥng ) với ngày về
vô định. Khi tôi được chuyển Trại vào Miền Nam ( Trại Z 30 A Xuân Lộc ) th́ Mẹ
tôi với sự giúp đở của cô và chú tôi đă tháp tùng vượt biên trên chiếc ghe nhỏ
của gia đ́nh do dượng Mười tôi ( gốc Hải Quân ) làm tài công và nhờ Ơn Trên đă
đến bến bờ Tự Do, b́nh yên và trọn vẹn. Năm ấy Mẹ tôi đă 64 tuổi. Phải mất 10
năm sau đó ( 1992 ) tôi mới thực sự đoàn tụ, sống gần Mẹ khi tôi được định cư
do chương tŕnh nhân đạo quen gọi là HO. Sau mất mát bất ngờ với sự ra đi vĩnh
viễn của em gái út tôi do căn bịnh ung thư. Tinh thần và thể xác Mẹ tôi bị suy
giảm trầm trọng và nhanh chóng. Ước nguyện sau cùng của Mẹ tôi là được trở về
Miền đất quê-hương, nơi chôn nhau cắt rún mà suốt cả cuộc đời Mẹ đă bôn ba,
chịu đựng, chắt chiu, lo lắng để các con trẻ đuợc nên người. Mùa Xuân cuối
cùng Năm Quư Mùi Mẹ tôi đă từ giă cơi đời trở về cùng miền viên măn.
Ơn cao quá Núi , Đo muôn trượng
Nghĩa nặng hơn Sông , Vạn tinh cầu .
Trần thế phủi rồi câu danh lợi
Non Tiên toại nguyện chữ an nhàn
Mẹ đi siêu thoát thân thư thái
Con ở dương gian dạ ngậm ngùi ./ .
Tây-Đô Lâm Tài Thạnh
Ghi dấu thất tuần ngày Giổ Mẹ Ngày 28 Tháng 2 Năm 2003
|