[_templates/thtqlcvn-header.htm]
|
TRÊN CHIẾN
TRƯỜNG XƯA Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở lại Kontum t́m thăm nơi an nghỉ của những đồng đội cũ. Trong những năm 72 và 73, đơn vị chúng tôi đă có hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi này để giữ vững miền địa đầu, cửa ngơ quan trọng nhất vào Tây Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nằm không xa phía dưới - thành phố Pleiku. Dừng chân dưới chân núi ChuPao, nhớ tới những trận đánh khó khăn ác liệt với những toán địch quân bị xích chân trong những hầm núi đá, cố bám trụ những cái "chốt", nhằm cắt đứt QL 14, con đường huyết mạch nối liền Kontum với Pleiku, và h́nh dung tới từng khuôn mặt của những anh em đă không bao giờ c̣n trở lại, một số đă gởi xác thân lại cho rừng núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là ḿnh c̣n mắc nợ họ. Món nợ máu xương không bao giờ trả được. Ngày ấy chiến trường ác liệt, có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban quân số chưa kịp nhận hồ sơ lư lịch. Đa số rất trẻ, độc thân, và gia đ́nh ở tận những miền xa, nên mồ mả không có ai chăm sóc. Hơn ba mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa trang trong thành phố đă bị giải tỏa từ lâu, và nếu có được cải táng ở một nơi nào đó, chắc trên mộ bia không c̣n ghi đơn vị cũ. Chúng tôi đến đây như để t́m lại chút kỷ niệm và mong được vơi đi chút nào ḷng trắc ẩn, chứ chuyện t́m lại được mồ mả của anh em – hy vọng rất mong manh. Cả thành phố Kontum bây giờ đă đổi khác. Khó khăn lắm chúng tôi mới t́m được các địa danh ngày trước. Những B12, B15, Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dă Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ từng mang tên những người anh, người bạn anh hùng của tôi đă nằm xuống để bảo vệ Kontum: Vơ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm…Chúng tôi t́m đến một số nhà quen lúc truớc. Tất cả không c̣n. Những người chúng tôi gặp đa số mới vào từ miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng đă tứ tán bốn phương trời. Tội nghiêp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh, có lúc thành phố bị mỗi ngày hàng ngàn quả đạn pháo, vậy mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với những người lính chúng tôi giữ vững thành phố này trong suốt những thời kỳ ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng, giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức tưởi khi không c̣n bóng dáng quân thù. Những người lính ở đây được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi từng được nghe người Kontum kể lại chuyện những người lính hào hùng, tự sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt vào tay giặc. Nghĩ tới đó, ḷng tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ trào ra. Đúng như chúng tôi dự đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong thành phố, nơi bạn bè tôi được chôn cất, không c̣n nữa, người ta đă giải tỏa để xây lên một số cơ sở công quyền và những khu giải trí. Chúng tôi t́m đến Ṭa Giám Mục, cũng là nơi mà đơn vị chúng tôi đă phải đổ khá nhiều máu xương để tái chiếm trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở. Ông cho biết là, mồ mả trong các nghĩa trang lúc xưa đă được cải táng và chuyển đến địa điểm mới, nằm trên cây số 9, đường lên Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những ngôi mộ có thân nhân nhận lănh và tự cải táng th́ mới có mộ bia, c̣n những ngôi mộ khác th́ không biết ra sao. Ngài c̣n tốt bụng, sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi đến đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước, nơi ngày xưa đơn vị tôi đă bao lần cùng với các chiến sĩ thiết giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy lui những đợt tấn công biển người của địch, giữ vững cửa ngơ vào thành phố Kontum.
Mất gần hai
tiếng đồng hồ, đi khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không t́m ra bia
mộ nào có cái tên quen. Nhiều ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục
trở lại Ṭa Giám Mục, cám ơn và chia tay ngài. Đă hơn 12 giờ trưa,
chúng tôi t́m một nơi nào đó để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch Đằng và
Thiên Nam Phúc ngày xưa, nơi có mấy cô chủ quán dễ thương, mà đám
lính tráng chúng tôi thường ghé lại đây ăn uống sau những tháng ngày
dài hành quân trong núi, một anh bạn hỏi thăm đường đến đó. Nhưng
quán bây giờ đă đóng cửa và những người xưa cũng đă trôi dạt về
những nơi nào đó. Bọn tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con
đường về làngTân Hương, nơi lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để những
ngày tương đối b́nh yên, bọn tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm ḍng sông
chảy ngược, tạo huyền thoại một thời này, mà nhớ tới vợ con hay
người t́nh đang ở đâu đó, để rồi sau lúc chia tay chẳng biết ngày
mai ai c̣n ai mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những hotel, nhà
hàng, nhà trọ và biệt thự của các ông quan lớn. Cuối cùng chúng tôi
cũng t́m ra được một cái quán ăn b́nh dân, nhưng khá sạch sẽ, nằm
dưới tàng của một cây trứng cá.
Chúng tôi vừa
bất ngờ vùa xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước trà ra mời
chúng tôi, chị kéo ghế ngồi xuống rồi tâm sự. Năm 1978, nhà cầm quyền Cộng sản ra lệnh giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi kêu gọi bà con cùng góp tiền góp sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em trinh sát về địa điểm mới. Hầu hết mồ mả của những anh em chiến sĩ c̣n lại, đă bị san bằng. Chúng tôi cảm động. Không ngờ trong thời buổi nhá nhem t́nh nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy phù thịnh, vẫn c̣n có nhiều người Kontum nặng t́nh với lính.
Theo yêu cầu
của bọn tôi, chị cùng chúng tôi đi thăm mộ anh B́nh và các anh em
trinh sát. Hơn hai mươi ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, nằm bên
nhau ở khu phía đông nghĩa trang. Điều đặc biệt trên các tấm bia,
trước mỗi cái tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng tôi thắp hương cho
từng ngôi mộ xong, quay lại th́ thấy chị đang ngồi sụt sùi trước mộ
anh B́nh. Khi thấy bọn tôi, chị lau nước mắt đứng dậy và nói một
ḿnh:
Trên đường vào
làng Trung Nghĩa, tôi hồi tưởng tới trận chiến trên tuyến Tây Bắc
Kontum. Nơi đơn vị tôi đă thắng một trận thật lẫy lừng, làm tiêu hao
cả sư đoàn 320 mà địch quân thường hănh diện là Sư Đoàn Thép, mở đầu
cho bao nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum, Tây Nguyên không lọt vào
tay giặc. Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi BTL Tiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập. Đại tá Lê Đức Đạt, vị tư lệnh không được sự ủng hộ của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ QĐII&QK2, đă từ chối lời mời lên máy bay của người cố vấn SĐ khi pḥng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều chiến xa T 54 của địch. Ông ở lại chiến đấu và vùi thây nơi chiến địa. Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất, một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc mà không hề có bất cứ sự yểm trợ nào của lực lượng đồng minh, cùng cái chết của vị tư lệnh liêm sỉ, khí phách hào hùng thời ấy đă là một trang chiến sử nói lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước sự bỏ rơi của người bạn đồng minh Mỹ, đă từng cam kết bảo vệ miền Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.
Căn cứ địa đầu
thất thủ, kéo theo sự xáo trộn của một Sư Đoàn bao nhiêu năm trấn
thủ tam biên, tạo thuận lợi để địch quân tràn xuống uy hiếp Kontum. Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng hạ tuần c̣n mờ ảo dưới màn sương, các toán tiền đồn phát hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến về hướng nam. Các đơn vị được lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ tất cả các lều poncho để tránh sự phát hiện của địch. Trên hệ thống vô tuyến, tất cả báo cáo đă sẵn sàng. Địch quân tập trung đánh vào pḥng tuyến TĐ 2 của Đại úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ có một đơn vị thiện chiến mới toanh vừa mới có mặt trên chiến trường này, nên sau một loạt tiền pháo, chúng xua những chiếc T54 dàn hàng ngang, lực lượng bộ binh ồ ạt theo sau. Mặc dù đây là lần đầu tiên trực chiến với xe tăng địch nhưng không hề nao núng, mặc cho những xích sắt tha hồ rú gào đe dọa, Đại úy Phán b́nh tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ khai hỏa khi những chiếc T 54 tới gần trước mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu của những khẩu M 72, loại vũ khí chống tăng duy nhất mà đơn vị được cấp, và một số B40, B41 của địch thu dược từ chiến trường An Khê. Đó là một quyết định táo bạo và sáng suốt. Chiếc T54 đầu tiên bị bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó, đại úy Nguyễn văn Hướng. Ngay sau đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc T54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt sống cả xe lẫn địch, trong đó có tên đại đội trưởng. Tiểu Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu, đánh bất ngờ bên hông địch, đám tàn quân chỉ c̣n kịp buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy tất nhiên là công trạng của tất cả mọi người, nhưng sẽ là thiếu sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền lành mà tài năng đảm lược. Lúc nào tiếng nói thật b́nh tĩnh, trấn an, dặn ḍ, đốc thúc của Bá Ḥa (danh hiệu của anh) cũng vang trên hệ thống vô tuyến làm nức ḷng chiến sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa an, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận. Ông vẫn đội bê rê đen, đứng trên xe M113 và đi bộ ngay trên pḥng tuyến, bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến tích đầu tiên của ông và gắn lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng. Người ta đă nói nhiều về cá nhân ông, nhưng ít ai biết được ông là một dũng tướng ngoài chiến trường. Chiến công hiển hách này đă mở đầu cho hằng loạt chiến thắng khác của tất cả những đơn vị tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống, nhưng vị Tổng Tư lệnh đă xua tay từ chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Ít nhất ông cũng đă chứng tỏ được cái uy dũng của một người xuất thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống đă gắn lon Tướng cho đại tá Lư Ṭng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn. Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều được vinh thăng một cấp. Riêng vị trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn Xuân được thăng cấp bằng một quyết định riêng sau đó. Anh được điều về làm Trưởng Pḥng 3 Sư Đoàn và sau này là một trong những vị trung đoàn trưởng thao lược của QLVNCH. Trung Nghĩa bây giờ chẳng c̣n môt chút ǵ dấu tích chiến tranh, nhưng nh́n ở đâu tôi cũng thấy bóng dáng anh em đồng đội cũ, những người bạn trẻ tuổi can trường của chúng tôi ngày trước. Đặng Trung Đức đă hy sinh vào mùa hè 1973 khi vừa được trực thăng vận xuống phía bắc căn cứ Non Nước. Tên anh được đặt cho bản doanh BTL/SĐ. Vợ con anh đă sang Pháp, nhưng chị Đức đă mất từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ già góa bụa, mà Đức là con một, cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa đầy một năm sau ngày Đúc hy sinh. Trần Công Lâm, người bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi - người sĩ quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi hành quân mà chưa gặp địch là không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu Đoàn 3/44, đă từng là một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao chiến công hiển hách, vang dội khắp Quân Đoàn, cũng đă nằm xuống cuối năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú. Nguyễn xuân Phán sau những năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Washington bên Mỹ và vẫn hăng say trong các tổ chức xă hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em, vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo chỉ có những lúc vui với anh em và say mèm mới có thể quên được nỗi đau. Phan Công Minh th́ đang sống âm thầm ở một thành phố biển ngoại ô New York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 "job", để đủ lo cho các con ăn học, thời gian c̣n lại chỉ đủ để uống rượu tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng con trai lớn vừa t́nh nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân trên chiến trường Irak. Riêng anh Ngô văn Xuân, ṃn mỏi, bệnh hoạn sau hơn 13 năm tù. Nhưng dường như những vết thương chiến trường, tù ngục c̣n trên thân xác không làm cho anh đau đớn bằng vết thương trong ḷng. Nỗi đau của một người đă hiến đời cho binh nghiệp mà giữa đường phải đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống lặng lẽ ở một nơi gần thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về Thiền và Phật học. C̣n lại, những đồng đội khác, hoặc đang sống lê lết khốn cùng ở đâu đó bên quê nhà với thương tích trên người, hoặc lưu lạc muôn phương, một số đă hy sinh, xác thân nằm ở một nơi nào đó, giữa núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các nghĩa trang, đă dời đi hoặc bị san bằng, nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn c̣n phảng phất đâu đây. Tôi đốt hết bó nhang c̣n lại chia cho anh em. Chị bạn gái của anh B́nh cũng xin được chia phần. Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của những đồng đội cũ được sớm siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những người c̣n sống nhưng đă không trả được – dù chỉ một phần nhỏ nào - món nợ máu xương cho họ.
Suốt đêm hôm
ấy không ngủ được, chúng tôi nằm kể lại bao nhiêu chuyện vui buồn
trên chiến trường xưa, nhắc lại từng tên, từng khuôn mặt bạn bè.
Chúng tôi cũng tranh luận thật nhiều về cuộc chiến đă qua và những
cái chết của đồng đội mà thấy ḷng nặng trĩu những đau buồn với bao
điều tức tưởi. |
[_templates/thtqlcvn-footer.htm]
|