|
( Trích trong Hồi kư Cuộc Đời Đổi Thay ) “ Kiếp sống là một chuỗi dài sầu tủi. Vui là bao, chỉ luống những ưu phiền “ Vài lời mở đầu: Những người được sanh ra trong thập niên 30 và 40 dưới thời Pháp thuộc đều bị ảnh hưởng của ba cuộc chiến. Trong những năm gần kết thúc đệ nhị Thế chiến, quân Nhựt Bản đă mang quân qua chiếm đóng toàn cơi Đông Dương Việt, Miên và Lào. Quân đội Đồng Minh dùng Không lực dội bom vào các căn cứ quân sự của Nhựt đă gây nhiều thiệt hại cho dân chúng và đồng bào Việt Nam phải sống trong sự nguy hiểm, lo âu. Những trận không chến hăi hùng giữa đôi bên làm cho ân chúng rất khiếp sợ. Quân Nhựt làm kinh tế nước nhà bị băng hoại gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hàng triệu đồng bào ruột thịt miền Bằc đă chết thảm thương v́ đói. Rồi sau khi quân Nhựt đầu hàng năm 1945, bọn Cộng sản Hồ Chí Minh và bè lũ lợi dụng thời cơ cướp cướp chánh quyền. Quân đội Anh giúp quân Pháp trở lại Việt Nam và trận giặc Việt Minh lại bắt đầu kéo dài đến khi Hiệp định Génève được kư kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 chia cắt quê hương Việt Nam ra hai miền theo vĩ tuyến 17, lấy cầu Hiền Lương làm ranh giới Nam Bắc, miền Nam tự do, miền Bắc Cộng sản độc tài. Trên một triệu đồng bào miền Bắc Vĩ tuyến phải rời bỏ nơi chôn nhao cắt rún, bỏ ruộng vườn , tài sản và người thân để chạy trốn loài quỷ đỏ. Kế đến là chiến tranh chống giặc Cộng sản miền Nam Bắc, càng ngày càng khóc liệt. Kết cuộc đưa đến thảm trạng ngày 30 tháng 4 năm 1975, v́ một Đồng minh mà thế giới cho là một thành tŕ chống Cộng vững mạnh đă bỏ rơi một Quân đội miền Nam can cường phải chống đở sự đè ép của cả một khối Cộng sản Quốc tế. Hàng trăm ngàn chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị thương vong và tử thương trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn nầy. Hậu quả sau khi miền Nam sụp đổ là hàng triệu quân, cán, chính của chánh quyền miền Nam bị tập trung vào các trại tù lao động khổ sai mà bọn Cộng sản gọi là đi cải tạo. Hàng triệu người không sống nổi dưới chế độ do bọn đầu xỏ Cộng sản ngu dốt cai trị phải trốn quê hương đi t́m vùng đất mới. Đồng bào ta đă đánh liều mạng sống để đổi lấy hai chữ Tự do, nhưng họ cũng đă mất mác quá nhiều. Hằng vạn người không bao giờ thấy được hai chữ Tự do v́ họ đă phải bỏ ḿnh dưới biển sâu hoặc giữa rừng thiêng nước độc. Tôi nghĩ rằng những vết thương ḷng nầy rất khó được phai nhoà và dân tộc Việt Nam , nhứt là những cựu chiến sĩ của QLVNCH vẫn c̣n đang thở than và rên siết như một thương binh bị bỏ quên mà vết thương hiện c̣n đang rỉ máu. Cuộc Đời Đổi Thay
Xă
hội thời Pháp thuộc.
tuyên truyền của bọn Việt Minh.
Sau khi quân Nhựt đầu hàng năm 1945 tôi được 12 tuổi. Hồ Chí Minh và
đồng bọn nắm thời cơ cướp chánh quyền. Quân đội Anh giúp quân Pháp
trở lại Việt Nam. Lực lượng Cộng sản rút hết vào bưng biền bắt đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhà tôi ở ngoại ô tỉnh Trà Vinh vùng
mất an ninh, đêm đêm bọn du kích Việt Minh thường di chuyển sột sạt
bên hè nhà. Đồn của lính Maroc đóng cách làng tôi ở khoảng gần một
cây số. Lâu lâu chúng thấy điều ǵ nghi ngờ th́ dùng trung liên bắn
xối xả vào làng cho nên nhà nào cũng có hầm ẩn núp, cuộc sống hết
sức là nguy hiểm. Người dân đa số rất nghèo v́ sau đệ nhị thế chiến
nền kinh tế khó khăn, những nhu cầu như gạo, đường, sữa, bột ḿ, vải,
dầu hỏa vv... thỉnh thoảng được chánh phủ cấp phiếu để bán rẻ cho
dân nghèo, nhưng các con buôn tiêu ḷn bán cho dân giàu với giá cao
hơn. Dân nghèo th́ nghèo thêm v́ sống với vật giá đắc đỏ. * Nền Giáo Dục Thời Pháp Thuộc.
Nền giáo dục thời ấy quá khắc khe, một số ít thầy giáo rất gắt gỏng, học sinh nghèo ít được thầy cô giúp đỡ bằng học sinh con nhà giàu có, hoặc cha mẹ có địa vị trong chánh quyền thời Pháp. Lúc thời đó học mỗi ngày 2 buổi, giờ nghỉ trưa từ 11:30 đến 2 giờ chiều, sống với bà kế mẫu, gia đ́nh nghèo nên 3 anh em chúng tôi phải vừa làm bài ở trường vừa làm việc nhà như cưa cây, chẻ củi, đào ao nuôi gà vịt, cho gia súc ăn để sống qua ngày. Không lúc nào chúng tôi có th́ giờ nghỉ ngơi hoặc tắm rửa trước khi trở lại trường học buổi chiều. Tôi học lớp Nhứt ở trường Tiểu học Trà Vinh, một hôm thầy giáo gọi tôi lên trên bục trả bài. Ông ngửi mùi hôi hám do mồ hôi nhễ nhại thắm với bụi đường v́ đi học xa giữa nắng hè. Ông đưa tay véo trái tai tôi kéo thật mạnh làm tôi xiểng niểng và đau điếng rơm rớm nước mắt, nhưng ông cũng chưa tha c̣n sỉ nhục tôi: “mấy ngày rồi mầy không tắm rửa, mầy hôi quá mặt mầy vằn vện trông giống như mặt ‘Uất Tŕ’ ” . (Ư nói Uất Tŕ Cung, một nhân vật trong Thuyết Đường.) Cả lớp cười ồ lên làm tôi nhục nhă, ḷng câm hờn sôi sục nhưng chẳng dám trách than! Tôi liền nghĩ ra ư tưởng của tuổi trẻ là chắc tôi phải bỏ học để theo lực lượng Việt Minh chống lại chế độ ngược đăi dân nghèo như thế nầy. Nhưng tôi cố gắng chịu đựng để lấy bằng tiểu học xong để thi vào trung học cho có một ít học vấn v́ tôi mới được 14 tuổi, nhưng sánh với tuổi học th́ tôi đă quá tuổi của cấp lớp. May mắn tôi đă đậu kỳ thi tuyển vào Petrus Kư và lên Saigon học. Sau cha tôi thấy việc làm nầy nguy hiểm quá và bịnh lao nặng phải cần lên Saigon chữa trị. Từ đấy gia đ́nh tôi không c̣n liên lạc với bọn Việt Minh nữa và cuộc đời tuổi ấu thơ bắt đầu thay đổi từ đây. Tôi nghĩ rằng có rất nhiều người sanh ra hồi thập niên 30 sống trong kiếp nghèo thường bị thể ảnh hưởng tinh thần có gọi là áp lực bởi ba nơi. Ở nhà th́ bị áp lực của gia đ́nh với sự giáo dục quá khắc khe của thời bấy giờ. Kinh nghiệm bản thân tôi, gia đ́nh nghèo v́ mẹ mất sớm lại sống với mẹ kế, cha lại bị binh lao nặng nên rất gắt gỏng hay đánh đập chúng tôi, chúng tôi sợ cha lắm và dường như thiếu sự triều mến của cha trong khi mất t́nh mẹ. Vào trường th́ gặp ông thầy cũng gắt gỏng cọc cằn đánh học tṛ tàn bạo, vào lớp thầy gọi lên trả bài là mặt mài tái mét. Ngoài xă hội th́ bị khinh khi v́ nghèo, bà con xa lánh.
* Đa số thanh niên
của thế hệ chúng ta đều trưởng thành từ quân đội. Tôi đă ra trung học năm 1953 trong lúc chiến trường đang gay go ở Điện Biên Phủ, những học sinh nghèo không có khả năng để lên đại học. Lúc ấy tôi chưa nghĩ đến vấn đề ṭng quân, thời đó tôi chẳng biết ǵ là chủ nghĩa Cộng sản và Quốc gia v́ ở trường chỉ có chương tŕnh học mà thôi. Lúc ấy vấn đề tuyên truyền chống chủ nghĩa Cộng sản không được phổ biến rộng răi nơi học đường cũng như ngoài quần chúng, sau nầy tôi nhận xét đây là vấn đề thiếu sót rất trầm trọng. Trong khi đầu óc đang quanh quẩn vấn đề t́m nghề học để có cuộc sống tự túc v́ đang sống với người chị. Tháng Tư năm 1954, tôi nhận được lệnh tŕnh diện nhập ngũ tại Đệ nhứt Quân khu để học khóa 5 tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trong ḷng vừa lo nhưng vừa mừng là ḿnh sẽ không phải lo lắng cho vấn đề mưu sinh nữa. Rồi đây tôi sẽ như các bạn học cùng lớp đă t́nh nguyện vào quân ngũ trước tôi đă ra trường khóa 9 hoặc khóa 10 Vơ Bị Đà Lạt. Tôi sẽ là một sĩ quan mang cấp bậc Thiếu úy với một gạch vàng chói trên đôi vai, lúc ấy người dân hay gọi là Quan Một. Tôi sẽ có được một cuộc sống thoải mái với tiền lương của sĩ quan Quân đội Quốc gia Việt Nam, tôi sẽ không c̣n là một học sinh nghèo nữa. Nhưng rồi đây cuộc sống của ḿnh sẽ ra sao? Chắc chắn là sẽ gian nan nguy hiểm nơi chiến trường không biết sống chết ngày nào. Sự nghĩ ngợi nầy làm tôi nhớ đến một anh cùng xóm lớn tuổi hơn tôi. Vào năm 1951, anh ấy đă mang hai gạch vàng trên vai, bị tử trận tại miên Tây. Sự việc nầy làm cho tôi cảm thấy lo sợ, thôi phó mặc cho số mạng. Nhưng trước mắt tôi sắp có được một cái nghề để sinh sống. * Những kỷ niệm của đời sinh viên sĩ quan. Quân phục của quân đội Pháp.
Tôi không bao giờ quên bộ đồ treillis
của quân đội Pháp vải thật dầy cộm để tập trận, thường hay có những
con rận nằm trong đáy quần cắn da ngứa ngáy rất khó chịu làm nổi ghẻ
lác; thỉnh thoảng có sự gây gổ giữa 2 người, kẻ nằm giường từng trên
và người nằm từng dưới khó tánh nổi quạu, v́ anh ở trên bị rận cắn
găi sột sạt làm cái giường cứ lắt lư hoài anh ở dưới không ngủ được.
Tôi cũng không quên đôi giầy bottes de saut da sần sùi rất cứng đế
có gai, mới mang là bị pḥng chân, đau nhói hai gót chân trên mỗi
bước đi. * Món ăn cá tra làm chuẩn.
Cá tra là loại cá rất rẻ tiền mà ở Mỹ cấm không cho nhập cảng từ Việt Nam v́ không hạp vệ sinh. Nhà thầu cho ăn cá tra kho và canh chua cá tra gần như hằng ngày. Loại cá này hôi lắm, những sinh viên có tiền th́ lên câu lạc bộ, c̣n đám nghèo chúng tôi cũng phải ráng ăn để lấy sức tập.
* Nét đẹp thiên
nhiên của núi rừng Đà Lạt.
rừng núi gần thị trấn Dran Đà Lạt,
khóa nầy không được ra Đồ Sơn Bắc Việt như các khóa đàn anh. Đây
cũng là dịp chúng tôi được biết cảnh đẹp thiên nhiên của núi rừng Đà
Lạt khí hậu mát mẻ, mấy anh chàng sinh viên sĩ quan trẻ rất phấn
khởi v́ nghe nói ở Đà Lạt các cô gái rất xinh má đỏ môi hồng. Nhưng
những sinh viên nghèo đâu có tiền ra phố Đà Lạt để du ngoạn cảnh thơ
mộng và được nh́n những thiếu nữ duyên dáng mỹ miều, nhưng cũng được
thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên của núi rừng rất đẹp và thơ mộng. tôi nghĩ chắc là đồng bào Thượng. Đến khi người ấy đến gần chúng tôi nhận ra là một cô gái Thượng khoảng 16, mặc xà-rong bằng vải thô, phần ngực trông rất đầy đặn không có một miếng vải che. Tôi và anh bạn sinh viên tên Cảnh nh́n chầm chập ngớ ngẩn v́ từ nhỏ tới giờ chưa từng thấy cái nầy, chỉ thấy trên h́nh vẽ của các họa sĩ vẽ chân dung mà thôi có thấy thật bao giờ đâu, lúc đó nó và tôi chưa đầy 21 tuổi c̣n độc thân. Nhưng cô ấy vẫn thản nhiên mỉm cười và nói mấy câu ǵ chúng tôi không hiểu, có lẽ là cô chào hỏi chúng tôi. Anh Kim Châm, người Việt gốc Miên đă có vợ ba con là Trung sĩ được đơn vị cho học khóa sĩ quan, trước có đóng quân ở Lâm Đồng nên rất rành lối ăn mặc của người Thượng. Anh cười nói rằng: “ Bộ tụi mầy lạ lắm hả? với họ tốt th́ khoe, xấu th́ che", tao đố tụi mầy thấy được một bà già thượng nào không bận áo nơi xứ nầy?”.
*Ra trường về đơn vị.
Chúng tôi măn khóa học đầu năm 1955 sau
Hiệp định Génève được kư vào giữa năm 1954, đất nước bị chia đôi từ
vĩ tuyến 17, miền Bắc là Cộng sản, miền nam Tự do. Các tân sĩ quan
được bổ nhiệm ra các đơn vị chiến đấu hoặc văn pḥng hay về Trung
Tâm Huấn Luyện. Tôi được sự vụ lệnh về Trung Tâm Huấn Luyện Quán Tre
nơi huấn luyện tân binh, nhưng không làm huấn luyện viên, được làm
đại đội phó ĐĐ-1 của Tiểu đoàn Sắt đặc trách an ninh toàn khu vực.
Tiểu Đoàn nầy gồm có các hạ sĩ quan và binh sĩ của các đơn vị
Commandos của Pháp di tản vô Nam. Sau đó vài tháng đơn vị của tôi
được lệnh hành quân tảo trừ lực lượng B́nh Xuyên tại cầu chữ Y Chợ
Lớn, cầu Tân Thuận, Khánh Hội và ở núi Thị Vải giữa Long Thành và Bà
Rịa. Mới ra sĩ quan c̣n quá trẻ, mấy ông Thượng sĩ già chê các sĩ
quan mới ra trường là Thiếu úy sữa. Lần đầu tiên trong đời lính đụng
trận tại cầu chữ Y rất hồi hộp và sợ hăi v́ thấy lính bị thương máu
me lênh láng, người kêu trời kẻ rên siết. Lúc nầy tôi mới bắt đầu
thấy cái chết rất dễ dàng làm tinh thần tôi giao động mạnh. Tôi bi
thương rất nhẹ do mảnh súng cối 60 ly ở mang tai phải. Phillipines rồi bay tiếp nghỉ 2 đêm tại Hawaii. Lần đầu tiên trong đời được đi du lịch, máy bay hạ cánh xuống phi trường nằm cạnh bờ biển của thành phố Honululu, Hawaii. Cảnh thật là đẹp, khí hậu mát mẻ, biển rất xanh với hàng dừa tươi mát trên bờ cát trắng ngà. Vừa xuống khỏi phi cơ một sĩ quan Mỹ đă đứng sẵn ở cầu thang đón chào chúng tôi với cung cách rất lịch sự với sĩ quan đồng minh Việt Nam, mỗi câu nói là Yes Sir.
Ông đưa chúng tôi về khách sạn Waikiki
sang trọng làm ḿnh hơi khớp, v́ trong đời chưa bao giờ bước chân
vào chỗ sang trọng như thế nầỵ Chúng tôi tha hồ du ngoạn cảnh thần
tiên thơ mộng, xem các thiếu nữ Hạ Uy Di với nụ cười duyên dáng mặc
củn lá dừa múa hát dịu dàng theo nhạc điệu dương cầm Hạ Uy Dị Lúc ấy
Hawaii c̣n rất vắng vẻ thanh b́nh không ồn ào náo nhiệt như bây giờ.
Đến San Francisco toán chúng tôi di
chuyển bằng xe lửa đến tiểu bang Georgia là nơi của căn cứ Fort
Benning. Những ngày trên tàu hỏa vấn đề ăn uống thật là phiền phức
v́ trong toán chẳng có ai biết tiếng Anh để gọi thức ăn. Mỗi lần đến
toa nhà hàng 4 thằng bạn ngồi chung bàn cứ nh́n quanh quẩn thấy bàn
nào có mấy món ăn có vẻ hấp dẫn th́ chỉ ông bồi bàn “same same
here”, ông bồi mỉm cười và mang ra y chang các món ăn giống bàn đó,
nếu may gặp món ăn được c̣n không hạp khẩu cũng ráng nuốt cho qua
cơn đói.
* Mặc cảm khi được
về binh chủng thiện chiến/Thủy Quân Lục Chiến.
Từ Đại đội Bộ binh tác chiến, sau về
quân trường rồi đến Tiểu Đoàn 3/ TQLC tôi hơi khớp v́ mặc cảm sợ anh
em đơn vị thiện chiến chê ḿnh là lính quân trường không biết đánh
giặc, nhưng may mắn gặp ông xếp Tiểu đoàn là cố Đại tá Nguyễn Thế
Lương dáng người ốm nhưng rất nhanh nhẹn và rất kỷ lưỡng trong các
cuộc hành quân, là bạn cùng khóa V Thủ Đức, nên cũng đỡ bỡ ngỡ. Tôi
thành thật cám ơn Ông và cựu Trung tá Nguyễn Hữu Nhơn Tiểu Đoàn Phó
cho tôi học lại cách điều quân của một đơn vị thiện chiến. Hai ông
nầy lúc ấy c̣n là Đại úy và đă có nhiều kinh nghiệm ở các cuộc hành
quân b́nh định và hành quân tiêu diệt địch khắp miền Nam từ Cà Mau
đến Bến Hải. Từ sĩ quan và hạ sĩ quan cán bộ đến binh sĩ Tiểu Đoàn 3
đều có rất nhiều kinh nghiệm chiến trường chiến đấu rất gan dạ. Vị
Đại Đội trưởng luôn luôn sát cánh bên tôi trong các trận mạc lúc tôi
làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 3 là cựu Trung tá Lê Bá B́nh, lúc đó là
Trung úy Đại Đội Trưởng Đại Đội 2. Sau khi tôi rời Binh chủng ông ấy
lên chức vụ Tiểu Đoàn Phó rồi đến Tiểu Đoàn Trưởng và được biết
trong các trận đánh ở cầu Đông Hà đơn vị của ông đă tiêu diệt rất
nhiều chiến xa T54 của địch.
* Có phải đức tin
thắng số?
V́ bị thương quá nặng máu ra lênh láng
đôi chân tôi bắt đầu lạnh, trong khi Bác Sĩ Chẩn đang băng bó tôi
chợt nhớ sợi dây thẻ bài để đầu nằm, liền nhờ ông lấy mang vào người
tôi và cùng lúc ấy tôi cầu nguyện mẹ tôi cứu độ tôi qua cơn nguy
biến.
* Những bước chân
Thủy Quân Lục Chiến trên khắp các nẻo đường quê hương.
Cửu Long giang nước chảy mênh mông.
Di chuyển trên tàu đổ bộ hành quân trở về từ vùng hẻo lánh của tỉnh
lỵ Mỹ Tho và Bến Tre, ngấm nh́n từ những mái nhà tranh nằm san sát
dưới những hàng dừa cao dọc theo những con sông nhỏ tỏa những cụm
khói xám bay nhẹ nhàng trong ánh nắng chiều vàng rất đẹp; hay những
buổi sáng có ghe thuyền tấp nập buôn bán nhộn nhịp trong cảnh thanh
b́nh giả tạo, v́ người dân ở đây có thấy đâu những trận đánh đẫm máu
giữa đơn vị ta và địch quần thảo nhau trong vùng bưng biền hẻo lánh. với những xa nước trông rất thơ mộng, có núi Thiên Ấn v́ đỉnh núi bằng phẳng ở xa nh́n giống như ấn trời. Quảng Nam có Ḥn Non Nước, trong hang động có thạch nhũ, ngoài có loại đá nhiều màu sắc các nhà điêu khắc làm các thứ h́nh tượng bán cho du khách. Các vùng vừa kể trên có rất nhiều đồi núi nhưng ít sông ng̣i và có tục danh là “non bất cao thủy bất thâm....” Mùa hè chúng ta có thể lội bộ ngang qua những con sông rộng lớn. Nơi những địa danh nầy các Tiểu Đoàn TQLC đă làm cho Sư Đoàn 3 Sao vàng Bắc Việt phải kinh sợ và biết đến danh Thủy Quân Lục Chiến VN. Đặc biệt những vùng nầy có rất nhiều đồi sim trái ngọt dịu và hoa sim màu tím rất đẹp, nên khi đóng quân nơi đây binh sĩ có máu văn nghệ hay hát bài Những Đồi Hoa Sim làm anh em chiến sĩ cũng tạm quên đi nỗi nhọc nhằn, vất vả của chiến trường. Mỗi lần hành quân qua những đồi sim tôi thường hay ngắt những cánh hoa dim tím ép vào bản đồ hành quân để về tặng vợ tôi. Có khi tôi nh́n những cánh hoa sim ép khô mà nghĩ không biết những đóa hoa sim nầy có về đến tay vợ ḿnh không? Hay là cũng trở về “trong ḥm gỗ trên phủ lá quốc kỳ?” Chắc các bạn cũng có lúc có những ư nghĩ nầy.
Tôi cũng c̣n nhớ và tội nghiệp cho một
Đại uư TQLC Mỹ OJT ( On the job of training) đă tử thương v́ mảnh
đạn súng 82 ly của CS trúng ngay đầu, nón sắt của ông bị bể tung và
ông chết ngay bên cạnh tôi.
bên kia vĩ tuyến có cái cảm giác hăi hùng của cuộc sống dưới chế độ độc tài khát máu của bọn CS. Thật là trái ngược với mỹ ư của người đặt tên cho chiếc cầu nầy.
* Luyến tiếc khi
phải rời Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến.
* Những chiến sĩ âm
thầm ngày đêm bảo vệ xă ấp: Địa Phương Quân và Nghĩa Quân.
Sau một năm dưỡng bịnh tôi được bổ
nhiệm làm Quận Trưởng Dĩ An. Về đây tôi vẫn tiếp tục chiến đấu nhưng
với cuộc chiến nhỏ bé bên cạnh các chiến sĩ ĐPQ và NQ. Họ là những
chiến sĩ âm thầm, ngày đêm có nhiệm vụ bảo vệ xă ấp. Họ không được
trang bị đầy đủ vũ khí, quân trang, quân dụng tối tân như những
chiến sĩ đàn anh thiện chiến, và cũng ít được báo chí hay truyền
thanh truyền h́nh nhắc tới, nhưng họ cũng là những chiến sĩ rất can
cường trong những trận chạm trán với lực lượng Việt Cộng địa phương
và trong những cuộc hành quân triệt hạ hạ từng cơ sở của chúng.
Đến năm 1970, tất cả hạ từng cơ sở và
lực lượng địa phương Việt Cộng đều bị tiêu diệt, dân chúng sống vui
vẻ thanh b́nh và làm ăn phát đạt. Các sĩ quan, hạ sĩ quan , binh sĩ
Địa Phương Quân và các Nghĩa Quân viên được tưởng thưởng rất nhiều
Anh dũng bội tinh. Các sĩ quan và hạ sĩ quan Bộ Chỉ Huy Chi Khu đều
phục vụ tích cực, Đại úy Hậu Trưởng ban 2 rất giỏi về t́nh báo đă từ
trần trong trại cải tạo miền Bắc. Đại úy Vơ và Đại úy Liểng Trưởng
Ban 3 trước và sau, cũng đă giúp tôi rất nhiều trong vấn đề thảo kế
hoạch hành quân, hiện nay 2 ông đă qua Mỹ theo diện HO sau khi bị
đày ở miền Bắc.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 tất cả là một sự đổi đời bi thảm, thành phần ṇng cốt của chánh quyền miền Nam đều bị tập trung gọi là đi cải tạo. Căm Thù
Anh th́ cỏi Bắc phường lao lư
Tuyết
Nga
Những sĩ quan giữ chức vụ quan trọng bị
đày ra Bắc, cấp Đại tá và Tướng lănh đi bằng máy bay nhưng đều bị
c̣ng tay. Chúng tôi bị bọn bộ đội CS đưa xuống tàu hải quân nhốt
chen chúc đến ngộp thở dưới hầm chở ra bến tàu phía Bắc vĩ tuyến 17
rồi từ đó lại bị nhét chật ních vào các toa chở hàng hóa bằng sắt
trên xe lửa đến Yên Bái. Một số anh em bị chết ngạt trên đường di
chuyển v́ không chịu nổi sức nóng như đun của các toa sắt giữa nắng
hè miền Bắc, Trung tá Nhiều trưởng pḥng 4 Sư Đoàn TQLC đă uống
thuốc tự sát trên tàu thủy trên đường đến Hải Pḥng. Chúng tôi đến trại tù Yên Bái tháng 6 năm 1976, đây là vùng rừng sâu nước độc trước kia bọn Cộng Sản đă từng giam giữ tù binh Pháp. Trại tù của chúng tôi là những dăy nhà tranh vách bằng tre đan do tù tự xây cất để ở, nằm trên 2 ngọn đồi thoai thoải, chung quanh núi non trùng trùng điệp điệp, cảnh rất buồn làm tâm trạng của tù càng buồn thêm, v́ xa vợ con, v́ bị lưu đày quá khổ sở, lao động khổ sai nhọc nhằn mà bụng th́ đói triền miên. Tôi không bao giờ quên cảnh trăng rằm tháng Bảy và trời mưa đầu tiên ở Yên Bái, buồn thật buồn! Mưa tháng Bảy thường gọi là mưa Ngâu làm tôi nhớ đến chuyện huyền thoại Ngưu Lang và Chức Nữ, rồi nghĩ đến ngày về thật là thời gian dài vô tận..... Cảnh rất đẹp vào những đêm trăng sáng nhưng sao quá buồn. Dưới chân đồi của trại tù có con suối nhỏ nước chảy róc rách quanh năm, nước phản chiếu ánh trăng lốm đốm như những con cá bạc tự do lội tung tăng theo ḍng suối trông thật là đẹp.
Ngắm Trăng Nhớ Về
Yên Bái Tuyết Nga Chứng kiến cảnh đau ḷng tại con suối nhỏ. Nhưng cũng nơi suối nầy tôi đă chứng kiến một cảnh rất đau ḷng là một buổi sáng trời mùa đông lạnh buốt với mưa phùn ướt át, hai Trung Tá trước phục vụ tai trường Bộ binh Thủ Đức (xin tạm giấu tên), gánh một thúng phân để tưới rau trên đồi bên kia ḍng suối. Khi qua đến giữa cầu khỉ bị trơn trợt té xuống suối phân văng tung tóe, hai ông vội vă chạy ngược ḍng suối để tẩy sạch phân lấm đầy người ḿnh rung v́ lạnh, tôi nh́n thấy thật là tội nghiệp đến rưng nước mắt.
Tôi chỉ biết than thầm cảnh lao tù CS
của chúng ta sao mà khổ thế! Và cũng tại nơi suối nầy vào một buổi
trưa tôi được ông Thiếu tá Q.., người có trách nhiệm nuôi heo cho bộ
đội, cho tôi nửa chén cháo heo. Tôi và ông ngồi ăn lén bọn bộ đội
bên bờ suối vắng vẻ, cháo gạo lức trộn với cám mùi thơm ngon nóng
hổi, đang cơn đói triền miên ăn vào cảm thấy thật ngon. Một ngày nọ
con heo mẹ sanh ra 8 con heo con nhưng v́ trời mùa Đông tiết lạnh
nên bầy heo con chết hết. Ông Q... báo cáo cho tên trưởng trại, sáng
hôm sau tên nầy ra lệnh cho nấu hết bầy heo con chết cho heo mẹ ăn,
ông chỉ mổ bụng lấy ruột ném đi rồi bỏ hết vào chảo nấu cho nhừ thịt.
Chảo cháo thịt bay mùi thơm phức làm bao tử ḿnh càng thấy đói thêm,
nhưng mấy heo con đă śnh rồi tôi không dám xin ăn. Ông ấy đă ăn lén
lúc nào tôi không biết, nhưng ông có khoe với tôi là ông đă xơi một
chén cháo thịt heo đă quá. Ngày hôm sau ông bị đau bụng, nôn mửa và
tiêu chảy trầm trọng tưởng ông phải chết v́ bị trúng độc mà không
dám nói ra là ông đă ăn cháo heo. *Cảnh trời mùa đông Yên Bái thật buồn năo nề. Mấy căn trại của chúng tôi nằm trên hai ngọn đồi thoai thoải. Trên ngọn đồi lớn là mấy dảy nhà của những người lao động nặng nặng, bên cạnh là ngọn đồi con trên đó là dảy nhà tranh nơi ở của những tù lao động nhẹ. Chung quanh là núi non trùng trùng điệp điệp với cây rừng một màu xanh biếc. Thật ra cái lạnh nơi xứ ḿnh đâu bằng tiết lạnh bên xứ nầy, nhưng v́ điều kiện của tù cải tạo ăn không đủ no, mặc không đủ ấm và phải làm lao động khổ sai, nơi ở lại là những dảy nhà mái tranh, vách bằng những tấm phênh đang bằng tre không kín đáo, nên mùa Đông trong các trại tù ở vùng núi rừng ngoài Yên Bái BắcViệt thật là hăi hùng đối với anh em tù chúng ḿnh. Tôi c̣n nhớ lúc mùa Đông lạnh lẽo mà anh em tù chỉ được bọn bộ đội cộng sản phát thêm một cái mền đỏ của Trung cộng nó mỏng te. Đêm đêm gió lạnh cắt da thổi xuyên qua vách lá, nên anh em tù trùm mền từ đầu đến chân và nằm một hàng đỏ ḷm trên hai sạp tre đối diện nhau, với ánh lửa củi rừng chiếu mập mờ, trông giống như một hàng thây ma trông cũng dễ sợ lắm !. Khổ nỗi là chúng tôi phải nằm im không dám cựa quậy, v́ mỗi lần cựa quậy là hơi lạnh lọt vào lạnh thấu xương. Mỗi tuần tôi chỉ dám tắm suối có một lần trưa ngày chủ nhựt được nghỉ lao động. Nhiều người ít khi tắm v́ sợ cái lạnh của nước suối không khác chi nước đá lạnh. Nằm gần bên tôi có người bạn là Trung tá BĐQ, ông ấy sợ lạnh lắm. Ông ấy đă qua đời sau khi được về với gia đ́nh, v́ không muốn gợi nỗi buồn của người quá cố nên tôi không tiện nêu tên ra ông ấy ra. Suốt mấy tháng mùa Đông ông không bao giờ tắm, ông luôn luôn mặc sáu lớp quần áo mà không bao giờ dám cởi lớp thứ ba từ trong người ra để giặc. Quư vị hăy tưởng tượng mỗi ngày lao động nặng th́ bao nhiêu mồ hôi thấm rút vào quần áo nó hôi cở đến nào? Nhưng ăn ngủ và sống chung nhau lâu ḿnh cũng quen mùi đi. Chính ḿnh cũng chẳng sạch sẽ ǵ lắm, ít hôi hơn thôi. Người ta hay nói ở dơ như tù là vậy đó. Mưa phùn nơi miền núi rừng ngoài Yên Bái cũng rất dễ sợ, chẳng đẹp và thơ mộng như các nhà văn hay thi sĩ thường hay tả cảnh đẹp nên thơ của mưa phùn Đalat hay Pleiku mù sương đâu. Hạt mưa ngoài ấy rất nhỏ phải nh́n qua rạng núi xanh mới thấy mưa rơi và lao động ngoài trời vài giờ là nước thấm ướt cả quần áo. Trời mưa ban ngày, mưa ban đêm và mưa triền miên cả tháng trời, gọi là mưa thúi đất v́ đất phải nổi śnh và lầy lội. Chân tôi đi khập khểnh nên thường hay bị té, mà mỗi lần té là phải thay đồ và giặc giủ khổ lắm. Có rất nhiều anh em đồng đội bị chết v́ nhiều nguyên do như chịu không nổi cái lạnh, cái đói hoặc bịnh hoan mà không có thuốc chửa trị. Có những bà vợ vượt hàng ngàn dặm rất vất vả để ra Bắc mong t́m thăm chồng. Khi tới nơi mới hay chồng đă chết v́ bọn cộng sản không cho thông báo tin về cho gia đ́nh. Các người tù bất hạnh đó đă bị chôn vùi trên những ngọn đồi hoang vu và tẽ lạnh. Tôi xin ghi một vài ḍng thơ thuật một câu chuyện rất thương tâm của một bà vợ ra thăm chồng ngoài đất Bắc. Khi ra tới nơi bà mới được tin là chồng bà đă chết, bà chỉ c̣n thấy nấm mộ của chồng nằm trên triền núi hiu quạnh do anh em tù chỉ báo. Cắt Tóc Đắp Mộ Chồng Xót thương ai đắp mộ chồng , Tóc xanh em cắt đắp mồ người yêu . Âm dương hai ngả anh ơi ! Chôn anh đất Bắc, em về miền Nam . Ngày xưa lội khắp bốn vùng , Nhọc nhằn gian khổ, cũng về thăm con . Hy sinh giữ nước giữ bờ , Bây giờ lao lư, xương tan chốn nầy ! Nghĩ suy thật quá đau ḷng ! Anh ơi giờ đă bỏ em thật rồi ! Từ đây trở giấc canh khuya , Thèm hơi anh ướm, thiếu chăn t́nh nồng . Một ḿnh một bóng lẻ loi ! Ḷng sầu tê tái, tuôn ḍng lệ rơi ! Bốn phương mưa gió năo nề ! Cốt hài phương Bắc, bóng hồn theo em . Hiển linh pḥ trợ mọi điều , Cho em vẹn giữ lời thề năm xưa . Rồi đây dầm dăi nắng mưa , Thay anh nuôi trẻ, không buồn cút côi . Lê la khắp chốn đó đây , Khác chi chim nhạn lẻ bầy kêu sương . Tuyết Nga. ( Phỏng theo chuyện thật -Thân tặng các bà có chồng đă bỏ thân nơi đất Bắc ) Tôi không bao giờ quên một cảnh tượng buồn năo nề khi chứng kiến h́nh ảnh của anh em tù cải tạo đẩy xác chết của cố Trung tá Tôn, cựu Phó trưởng pḥng Nh́ Quân đoàn III ở Biên Hoà. Thân xác ông được lịm vào một quan tài đóng bằng bốn tấm ván gỗ thô sơ. Anh em tù đă đẩy quan tài của ông Tôn trên một chiếc xe cải tiến ( loại xe ḅ ), đi trên con đường dốc lúc chiều sẫm tối và chôn ông trên triền núi khi trời đang lất phất mưa. Cố Trung tá Tôn đă bỏ ḿnh sau khi ông bị nhốt vào hầm tối vài ngày v́ ông đă trốn trại mấy hôm th́ bị nhân dân du kích của cộng sản bắt lại. Tôi nghĩ là ông bị bọn bộ đội ác ôn siết cổ chết rồi lên tiếng là ông Tôn thắt cổ tự sát, v́ cái hầm tối mà chúng nhốt tù nhỏ như một cái huyệt đào sâu trên triền núi làm sao mà dễ dàng dùng dây treo cổ được. Tội nghiệp cho những ông tù cao niên, họ ngủ rất ít v́ lạnh quá không ngủ được. Giữa đêm khuya các ông thường hay ngồi bên cạnh đóng củi lửa đỏ cháy bập bùng giữa hai hàng sạp tre để sưởi ấm cho tù. Nhưng có thấm vào đâu v́ anh em tù ngủ trong những dảy nhà tranh không kín đáo đối với cái lạnh và gió buốt của miền rừng núi hoang vu thường thổi ḷn qua khe lá. Tôi c̣n nhớ măi và chắc sẽ không bao giờ quên được h́nh dáng của cựu Trung tá Đ… và vài ông nữa, tuổi bằng cha chú của chúng tôi lúc đó. Ḿnh các ông quấn chăn, đầu trùm mũ và mặt mày che kín mích chỉ c̣n để lộ đôi mắt sâu lỏm để nh́n thấy, lổ mũi để thở và đôi môi tím ngắt lâu lâu hít vài hơi thuốc lào cho đở lạnh. Mỗi lần tôi thức dậy v́ cần ra ngoài cho vấn đề cá nhân, tôi trông thấy h́nh dáng của mấy ông thật là buồn năo nề. Nếu tôi là hoạ sĩ tôi sẽ vẽ một bức tranh bất hủ của cái cảnh nầy. Tôi xin ghi vài câu thơ đơn giản tả cảnh tượng buồn thê thảm ấy để gợi nhớ cảnh sống thật cùng cực của anh em tù ngoài Yên Bái :
Ngồi bên ánh lửa bập bùng , Ḷng ta đau đớn nhớ thương quê nhà ! Ngoài kia suối chảy triền miên , Đêm nay mưa nhẹ, gió hiu hắt buồn ! Gío đưa những giọt mưa phùn , Như ḍng nước mắt khóc tù xót xa ! Trăng đầy trăng khuyết em ơi ! C̣n bao lâu nữa thấy con, vợ hiền ?!!! TN * Dă tâm của bọn CS.
Sau 3 năm ở ngoài Bắc, bọn CS thả những
người tù già yếu bệnh tật trong đó có tôi mà bọn chúng nghĩ có về
th́ cũng chết thôi. Về nhà mừng vui được sum hợp gia ́h nhưng không
khí rất là ngộp thở v́ những tên công an khu vực tới nhà xét bất cứ
lúc nào. Sau 2 tháng bọn Việt Cộng địa phương đến bắt tôi lại, chúng
nó cho tôi vài phút chuẩn bị đồ đạt, nh́n mặt chúng lộ vẻ đằng đằng
sát khí nên tôi nghĩ chúng sẽ giết tôi để trả thù, tôi quyết định
dùng thuốc tự sát thà chết tại nhà với vợ con hơn là bị bọn chúng
vùi xác nơi nào đó mà vợ con không hề biết được. Trước sự giằng co
dữ dội của vợ con tôi cùng sự chứng kiến của người xung quanh, vợ
con tôi quyết định liều đem tôi ra xe chở đi bệnh viện. Trước sự
phẫn nộ của vợ con tôi mà chúng đành đóng kịch trước dân chúng và
theo đuổi vợ con tôi sau đó. Sau 4 ngày đêm tôi tỉnh lại, trốn khỏi
nhà thương Nguyễn Văn Học và sống ẩn náu trong sự khủng hoảng hơn
một năm trời mới vượt biên được. Tôi được biết một số sĩ quan về
cùng lúc với tôi cũng bị bọn CS bắt lại, không biết số phận ra sao?
Lần thứ
nh́ vào cuối năm 1979, tôi qua Mỹ với tư cách là thuyền nhân tỵ nạn
từ Thái Lan đi bằng máy bay Charter, họ cho ăn đồ fast food chớ đâu
được ăn uống sang trọng như hồi thuở đi du học bằng máy bay du lịch.
Khi chiếc charter đáp xuống phi trường Oakland tất cả tỵ nạn phải
được khám sức khỏe trước khi cho về nhà của bảo trợ. Một cô y tá Mỹ
nh́n hồ sơ của tôi và thấy tôi chống gậy cô ấy lắc đầu làm tôi nghĩ
chắc cô nầy thấy tôi bị tàn phế nên thương hại, cô hỏi tôi: “ông có
đi làm được không?” Tôi biết ngay là chắc mụ đầm nầy nghĩ ḿnh qua
đây rồi sẽ ăn bám mới hỏi câu nầy. Tôi nổi cáu trả lời: “Ở Việt Nam
tôi c̣n đánh giặc được, qua đây làm cái ǵ mà chẳng được!”
ngờ lại bị stroke
tuy không nặng lắm, nhưng làm ảnh hưởng vết thương cũ nơi xương sống
nên đă hơn hai năm nay vẫn phải ngồi xe lăn. Lắm lúc cũng buồn và
chán nản, nhưng ngoài sự thương yêu lo lắng của vợ con c̣n có các
Niên trưởng, các Chiến hữu và bạn bè thường xuyên thăm hỏi và an ủi.
Có lần bà cựu Tư Lệnh cũng không ngại đường xa lên thăm và an ủi làm
chúng tôi tưởng nhớ và thương tiếc Cánh chim đầu đàn mà chúng tôi
luôn kính mến đă sớm bay đi về miền miên viễn. Tôi xin thành thật
cám ơn quư vị đă cho tôi những an ủi tinh thần rất quư báu giúp cho
tôi chóng lành bệnh. T́nh huynh đệ chi binh trong Binh chủng thật là
quư hóa.
Trả Ta Sông Núi Sông sâu nước chảy muôn đời Tuổi người Trời đă đinh rồi thời gian Từ khi non nước điêu tàn Mang thân lưu xứ ḷng man mác buồn Thu, Đông cây lá thay màu Ḷng sầu non nước muôn đời không phai Gẫm đi gẫm lạị tháng ngày Trông mong chim én mang về mùa Xuân Buồn thay tuổi đă xế chiều Chẳng ai đ̣i lại Núi Sông cho ḿnh Bây giờ vẫn đợi vẫn trông Trả ta Sông Núi ước mơ cuối đời. Tuyết-Nga
Mọi tin tức, bài vở muốn post trên wesite xin email bixitrum@yahoo.com
|
|||||||||||||||||||||||||||||
|