TỔNG HỘI THỦY QUÂN LỤC CHIẾN VIỆT NAM

 

 

GIỮA  HAI  BỜ  SINH  TỬ

                                                                                                                                             Nguyễn Trần Diệu Hương

    Lâu lâu nhận được những cái E mail của  Ông, nh́n giờ gởi là hai hay ba giờ sáng, không nói ra nhưng chúng tôi đều hiểu Ông vẫn c̣n giữ  thói quen thức dậy mỗi hai tiếng mỗi đêm check up t́nh h́nh sức khỏe của Bà. Chỉ cần khoảng ba tháng liên tục  làm  một hoạt động nào đó, đúng giờ,  đồng hồ sinh học trong cơ thể con người quen với  một thời khóa biểu cố định, Trong trường hợp này, Ông đă chăm sóc Bà, triền miên trong bệnh Alzheimer từ cả thập niên th́ chắc hẳn là giấc ngủ của ông tự động chỉ kéo dài mỗi hai tiếng, ông bật dậy, tỉnh táo đi quanh trong nhà, dù là không c̣n có Bà để được chăm sóc nhau ở  đoạn cuối cuộc đời. 

   Ông đă dốc hết tâm trí vào việc chăm sóc Bà, từ việc đọc những tài liệu về bệnh Alzheimer (đến bây giờ  Y học vẫn  thua cuộc trước căn bệnh mất trí nhớ này) đến  việc dành hết th́ giờ ở cạnh Bà, lo từng muỗng cháo đến từng hớp nước. Mỗi năm vài lần, ghé qua thăm Ông, nh́n cảnh Ông vào ra trong căn nhà tĩnh lặng, không có tiếng nói, không có tiếng cười, dù vẫn thường xuyên có hai vợ chồng, nh́n Bà gầy như chiếc lá trên giường bệnh, rồi nh́n những h́nh ảnh của Ông trong quân phục thời c̣n nổi trôi trên các  chiến trận từ Cà Mâu đến Bến Hải, tôi vẫn tự hỏi ông đă lo cho hàng ngàn binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến ngày trước và lo cho Bà bây giờ, nỗi lo nào lấy đi nhiều tâm lực của ông hơn? 

  Chỉ ở cách nhà  ông khoảng 30 miles nhưng tôi được tin Bà vào bệnh viện (và măi măi không bao giờ về) qua đường dây điện thoại viễn liên từ Đông sang Tây của nước Mỹ  từ một đồng đội của Ông ngày xưa (và là một người bạn tù của Ba  từ thời gian khổ ở trại tù Nam Hà ngoài Bắc cuối thập niên 70). 

   Chúng tôi vào bệnh viện thăm Bà và để hỗ trợ tinh thần cho Ông trong những ngày Bà đứng giữa hai bờ sinh tử. Tôi vốn sợ không khí thoang thoảng mùi Ethanol của bệnh viện, sợ nh́n nỗi đau đớn thể xác của giai đoạn thứ ba trong chu kỳ “sinh lăo bệnh tử” của loài người, nên  bao giờ vào bệnh viện, dù là đi thăm ai, tôi cũng thường nhờ người “escort” để hỗ trợ tinh thần.  Lần vào bệnh viện thăm Bà mùa Đông 2007, có hai người bạn đi cùng đều quư Ông như tôi, và đều là  “chuyên gia bệnh viện” nên  tôi thấy “ấm ḷng chiến sĩ’ hơn, mùi Ethanol dường như bớt nồng nặc hơn. C̣n hơn thế, tôi không phải đi ḷng ṿng t́m chỗ đậu xe như những lần đi thăm người bệnh khác v́ một trong hai người bạn có thời làm ở bệnh viện nơi Bà đang điều trị, biết rất rơ “sweet spot”, để đậu xe, và đi tắt vào bệnh viện qua cửa pḥng cấp cứu để tôi đỡ bị thấy những nơi đau đớn thể xác rất thật của con người. 

  V́ vậy, nên đến lúc đứng cạnh giường bệnh của Bà, tôi vẫn c̣n “b́nh tĩnh”, đầy đủ tinh thần để quan sát và thấy rơ  t́nh nghĩa phu thê của Ông đối với Bà cảm động, và sâu xa hơn  t́nh nghĩa “một duyên hai nợ âu đành phận”  nhiều. Ở cái  bảng nhỏ cuối giường có tên người bệnh, có tên Bác Sĩ, Y tá trực trong ngày, Ông viết thêm tên của Ông và số điện thoại liên lạc trong trường hợp khẩn cấp.  Ở tuổi ngoài 70, Ông vẫn túc trực ở Bệnh viện bên cạnh Bà từ sáng đến tối, thường là chỉ được ngồi nghỉ chân trên cái ghế nhỏ ở cuối pḥng. Ông chỉ chạy về nhà để ăn uống qua loa và làm vệ sinh cá nhân, chợp mắt vài tiếng rồi, lại chạy vào bệnh viện, dù là chỉ để được nh́n bà đă ch́m vào hôn mê, mắt luôn nhắm nghiền,  đang mỏi ṃn thoi thóp giửa hai bờ sinh tử  Cô Y tá trực người Phi Luật Tân vào check up Bà vài lần trong ca trực, luôn thấy Ông quẩn quanh bên giường bệnh, chốc chốc lại nh́n cái máy chuyển  chất dinh dưỡng lỏng vào cơ thể Bà ở đầu giường, cũng cảm kích trước tinh nghĩa vợ chồng của Ông đối với người bệnh nên chăm sóc Bà chu đáo hơn bệnh nhân ở giường bên kia, cùng pḥng với Bà. Người y tá cũng để cho Bà mặc quần áo như ở nhà ( bộ đồ lụa mầu hồng) thay v́ yêu cầu Ông đổi quần áo bệnh viện cho Bà. Nguyên tắc của Bệnh viện sau chín giờ tối, thân nhân phải ra về, cần ǵ th́ người bệnh bấm chuông gọi y tá, nhưng v́ bà là bệnh nhân Alzheimer  nên y tá trực cho các cô con gái của Ông Bà thay phiên nhau ở lại bệnh viện với Mẹ.  Ban ngày khi các chị đi làm th́ Ông và cô điều dưỡng, người vẫn đến giúp Ông chăm lo cho Bà từ nhiều năm nay ở nhà, vẫn túc trực bên Bà. 

Chúng tôi đến thăm Ông Bà, lần này ở Bệnh viện thay v́ ở nhà như lần trước, vừa quư Ông về những đóng góp của Ông cho cuộc chiến tranh bảo vệ tự do mà cuối cùng “kẻ xấu đă thắng” như ư kiến của Thượng nghị sĩ John McCain, vừa cảm kích t́nh nghĩa vợ chồng của Ông Bà, nên đă mang vài thứ thức ăn nhẹ cho Ông, nhưng xem chừng trên giường, người bệnh không ăn uống được v́ yếu sức, ở  góc  chân giường, người trông bệnh cũng chẳng nuốt trôi được thức ăn nào v́ lo lắng.

 Trong lúc chúng tôi nghe ông kể lại thời khóa biểu thường nhật của ông đảo lộn kể từ ngày Bà vào Bệnh viện, người bạn là Bác sĩ lặng lẽ đến đầu giường, cạnh bên những dây nhỏ chằng chịt, và những biểu đồ bệnh lư để đọc những con số chi chít trên đó,  thỉnh thoảng lại nâng tấm mền mỏng của Bệnh viện  quan sát những mạch máu trên tay Bà. Anh không nói gi, nhưng chúng tôi có linh cảm những ngày cuối đời của Bà đang được đếm từng ngày. 

C̣n nhớ hôm đó, giữa mùa Đông, trời mưa tầm tă, tôi phải tập trung tinh thần lái xe, không dám nói chuyện, không dám nghe soft-rock music trên băng tần FM96.5 quen thuộc. Lúc rời bệnh viện, trời đă sụp tối, mặc dù chỉ mới gần sáu giờ chiều. Không phải là dân địa phương, vừa không quen đường, trời vừa tối, lại mưa như trút nước, trời xui đất khiến làm sao thay v́ quẹo vào  freeway, xe của tôi lại chạy vào ……. một cái nghĩa trang ở ven xa lộ 101, mà tôi cũng không biết cho đến lúc thấy cái bệ nổi, nơi người ta vẫn để quan tài làm lễ trước khi đưa người quá cố về với ḷng đất. Cả ba chúng tôi đều thấy đó là “điềm gở” nhưng không dám kể lại cho Ông. 

Y như rằng sau đó vài ngày, chúng tôi được tin Bà  không c̣n bị dăng co giữa hai bờ sinh tử mà về hẳn với cơi vĩnh hằng. Tối hôm đó, có dịp nói chuyện với một người bạn rất thân của Ba từ  Dallas, cũng là một cựu Sĩ Quan QLVNCH cùng thời với ông, tôi kể cho Bác nghe về chuyện chăm sóc Bà rất t́nh nghĩa, rất  thủy chung của Ông từ cả thập niên qua. Mặc dù không quen Ông, Bác cũng xin số điện thoại của Ông để gọi là chia xe nỗi mất mát không cùng với một người cùng thời, cùng mặc áo lính, cùng một bên chiến tuyến ngày xưa.  Mới thấy t́nh “huynh đệ chi binh” vẫn c̣n mặc dù hàng ngũ oai hùng của QLVNCH ngày xưa đă bị "xẩy đàn tan nghé" từ một ngày cuối tháng Tư rất buồn của đất nước.

 Chúng tôi đặt một ṿng hoa gởi đến phúng điếu, mong mầu sắc tươi thắm của  những bông hoa sẽ giúp Ông và con cháu thấy cuộc đời đỡ ảm đạm trước đại tang trong đời. Lúc đến viếng Bà lần cuối ờ nhà quàn, chúng tôi mới thấy cả một rừng hoa đến từ những đồng đội ngày xưa, nhất là những người cùng sát cánh bên ông giữa bom đạn năm nào. Có cả những người đích thân bay đến thăm ông từ rất nhiều tiểu bang khác nhau của nước Mỹ rộng lớn. Họ là bạn vong niên, là đồng đội, cùng đơn vị với ông. Có những người không biết nhiều về Ông, nhưng biết đến tiếng tăm của Ông qua chiến thắng hào hùng của QLVNCH nói chung và Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến nói riêng ở Cổ thành Đinh Công Tráng,  Quảng Trị năm xưa, cũng đến thăm Ông và tiễn Bà lần cuối  đúng với câu “nghĩa tử là nghĩa tận”.  Dĩ nhiên, cũng như Ông, đa số họ đều đă bước vào hoàng hôn của đời người, nhưng vẫn không quản ngại thời tiết mùa Đông đang làm băng giá hơn một nửa nước Mỹ, không ngần ngại bỏ ra một số tiền không nhỏ, đối với thu nhập của một “senior citizen”, cho một cái vé máy bay round trip chỉ mua trước giờ bay không đến một ngày. Tất cả những điều đó hẳn đă an ủi Ông rất nhiều, đă đền bù cho Ông về những gian khổ, những hiểm nguy ông đă chịu đựng ở chiến trường năm xưa.

 

Giữa những tràng hoa phúng điếu tươi thắm, Bà nằm an nghỉ trong chiếc áo dài Nhung mầu tím đỏ, mà Bà rất thích thuở  c̣n khỏe mạnh, mặt cũng tươi thắm hồng hào như vẫn nằm thiêm thiếp ở nhà từ bao năm qua.   

Ngày đưa Bà về ḷng đất, chúng tôi phải đậu xe rất xa, và đi bộ giữa trời lấm tấm mưa phùn mùa đông v́  đồng đội Ông, những cựu chiến sĩ TQLC mắt sáng, môi tươi ngày xưa, bây giờ gối đă mỏi, chân đă ṃn, tóc đă điểm mầu sương khói, vẫn tụ tập về rất đông đủ, như họ vẫn sát cánh bên Ông giữa bom đạn năm xưa. Tôi tự nghĩ nếu tất cả họ đều mặc quân phục, chắc là  rất giống cảnh đám tang ở Nghĩa Trang Quân đội Biên Ḥa thời trước tháng 4 năm 1975. Nhưng điều làm chúng tôi cảm động nhất là Ông, người Sĩ quan QLVNCH năm xưa trong mầu áo hoa rừng, bây giờ trong mầu áo đen của tang phục, đă nghẹn ngào nấc lên nhiều lần khi đọc điếu văn tiễn người bạn đời về bên kia thế giới.   

Chúng tôi vẫn tự hỏi, phải chăng ngoài nước mắt khóc thương Bà vĩnh viễn ra đi, c̣n có nước mắt Ông đă nén vào ḷng năm xưa khi thấy đồng đội của ḿnh bị dằng co giữa hai bờ sinh tử, giữa súng đạn vô t́nh ở chiến trường dạo trước?  Dù là nước mắt nào đi nữa, bên cạnh mất mát không thể nào bù đắp được của ông, t́nh đồng đội là một niềm an ủi rất lớn giúp Ông đứng vững được trong quảng đời c̣n lại một ḿnh, vĩnh viễn không c̣n có Bà bên cạnh…..

 

                                                Nguyễn Trần Diệu Hương

                                                Santa Clara, tháng 3/09

 

 

 



Mọi tin tức, bài vở  muốn đăng trên website TQLC/VN xin email:
  bixitrum@yahoo.com